Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Ai Cho Ta Bình An?

phat hoc-phan minh duc

Người ta thường hiểu bình an là không gặp những biến cố trở ngại cho đời sống, không bệnh tật, không tai nạn. Trong đạo Phật, khái niệm bình an được hiểu sâu sắc hơn, đó là tâm an ổn, trong không bị các phiền não tham lam, ganh ghét, đố kỵ, kiêu mạn v.v… chi phối; ngoài không bị các duyên tác động (tâm an nhiên, tự tại không bị dao động bởi hoàn cảnh bên ngoài).

Đôi khi không có chuyện gì xảy đến với chúng ta nhưng tâm chúng ta không bình an. Bởi vì chúng ta còn quá nhiều tham muốn chưa thực hiện được, chúng ta không hài lòng, thỏa mãn với những gì đang có; hoặc bởi vì chúng ta còn giận người này, hờn người kia, ghét người nọ; hay nuối tiếc những chuyện xảy ra trong quá khứ, buồn bã vì dĩ vãng vàng son, oanh liệt, những kỷ niệm đẹp đã qua đi; chúng ta băn khoăn, lo lắng, sợ hãi những điều chưa xảy đến. Chính vì thế mà tâm chúng ta không bình an dù chẳng có chuyện gì xảy đến như tai nạn rủi ro, bệnh tật; dù chúng ta có nhiều tiền của, có sức khỏe, có quyền lực, địa vị, có vợ đẹp con ngoan, có hoàn cảnh sống tốt.

Bình an là nền tảng của hạnh phúc, không bình an thì không có hạnh phúc. Nhiều khi hoàn cảnh an mà tâm chẳng an, hoàn cảnh vui mà tâm chẳng vui, do đó không có hạnh phúc. Vậy thì làm sao để có được sự bình an? Tự mình tìm hay ai mang đến?

Trong những ngày đầu năm mới chúng ta thường đến chùa, đình, miếu mạo để cầu nguyện cho bản thân và gia đình được bình an, đó là việc làm với ước muốn tốt đẹp đáng trân trọng và khích lệ. Tuy nhiên ước nguyện đó chỉ thành hiện thực khi ta xây dựng trên nền tảng đúng đắn.

Không ai có thể cho chúng ta bình an dù đó là Thượng đế hay các thần linh, thậm chí là bậc siêu xuất tam giới, chí tôn vô thượng như Đức Phật. Khi đặt niềm tin tuyệt đối vào Đức Phật, Thượng đế hay vị thần linh nào đó cũng giống như người bệnh đặt niềm tin vào vị lương y hay bác sĩ. Niềm tin đó có thể giúp người bệnh an tâm trong một thời gian ngắn, không hoặc bớt hoang mang lo lắng, sợ hãi, khổ não, giúp người bệnh có hy vọng. Tuy nhiên sự an tâm này như một liều thuốc an thần, một liều thuốc ngủ, nó không có tác dụng chữa bệnh, không có tác dụng mang lại sức khỏe cho người bệnh, khi căn bệnh phát triển nặng hơn thì niềm tin này không còn đủ sức mang lại bình an cho người bệnh và nó cũng dần dần tan biến. Do đó, nếu chỉ tin vào vị lương y hay bác sĩ mà không dùng thuốc điều trị, không dùng các biện pháp điều dưỡng, phục hồi sức khỏe, hoặc chúng ta tin nhầm vị lương y, bác sĩ giả, không có trình độ khám chữa bệnh, chỉ đánh lừa thiên hạ bằng nhãn mác lương y, bác sĩ; hoặc người đó chưa bao giờ cho rằng mình có khả năng chữa bệnh, có khả năng mang lại sức khỏe cho người khác nhưng mình lại lầm tưởng là họ có khả năng đó, những trường hợp tin như thế thì người bệnh không thể nào hết bệnh, không thể nào cải thiện hoặc nâng cao sức khỏe của mình.

Muốn hết bệnh, người bệnh phải uống thuốc và điều trị theo hướng dẫn của vị lương y, bác sĩ thực thụ. Muốn có sức khỏe thì phải thực hành các phương pháp dinh dưỡng, dưỡng sinh, phải rèn luyện thân thể, tu dưỡng thân tâm theo sự hướng dẫn của các nhà dưỡng sinh, dinh dưỡng. Điều quan trọng là tìm đúng vị lương y, bác sĩ có khả năng chữa trị bệnh; phải tìm đúng vị thầy về dinh dưỡng, dưỡng sinh có khả năng giúp chúng ta mang lại sức khỏe cho mình, và chúng ta phải làm theo lời chỉ dẫn của ông ta để hết bệnh, để có sức khỏe. Cũng giống như vậy, không thể chỉ có niềm tin vào Đức Phật hoặc Thượng đế hay vị thần linh nào mà chúng ta có được sự bình an. Đức Phật chưa bao giờ tuyên bố hoặc hứa hẹn rằng: Như Lai có quyền ban phước giáng họa. Như Lai sẽ ban phước cho những ai cung kính Như Lai và trừng phạt những ai không cung kính Như Lai. Ta sẽ ban sự bình an cho những ai tin ta, trung thành với ta... Chúng ta không thấy trong bất kỳ kinh điển nào Đức Phật nói lên điều đó.

Tâm Đức Phật bình đẳng đối với mọi chúng sinh. Trước sự cung kính và phỉ báng, trước những thái độ của thế gian thường tình, tâm Ngài bất động, an nhiên, tự tại. Trong kinh Trung bộ, Đức Phật từng nói với các vị Tỳ-kheo rằng: “Này các Tỳ-kheo, nếu người khác mạ lỵ, phỉ báng, phiền nhiễu Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không oán hận, phẫn nộ hay bất mãn…Và nếu người khác kính lễ, tôn trọng, sùng bái Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không hoan hỷ, thích thú hay phấn khởi”. Và Đức Phật cũng dạy rằng: “Các con hãy tự mình cố gắng, Như Lai chỉ là người chỉ đường, mỗi người phải tự đi đến (mục đích an lạc, hạnh phúc, chấm dứt mọi khổ đau), không ai đi thế cho ai được (Pháp cú 276)”. “Hãy tự coi chính con là hải đảo của con, chính con là chỗ nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa bên ngoài. Hãy xem giáo pháp (những lời dạy của Đức Phật) là hải đảo của con. Giáo pháp là chỗ nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa ở bên ngoài” (Kinh Trường A-hàm). Đức Phật dạy chúng ta hãy nương vào giáo pháp (những lời Ngài dạy), chính mình làm chỗ nương tựa cho mình, nỗ lực thực hành những lời dạy của Ngài để đạt được sự bình an, hạnh phúc. Ngoài giáo pháp và sự thực hành giáo pháp, không một ai có thể làm chỗ nương tựa cho chúng ta.

Giáo pháp của Đức Phật chỉ cho chúng ta biết đâu là nguyên nhân của những bất an, khổ não, phiền muộn, lo lắng, sợ hãi, chỉ cho chúng ta biết phương pháp dứt trừ những điều bất như ý đó để có được sự bình an, hạnh phúc. Chúng ta phải tự mình thực hành giáo pháp, tự mình chuyển hóa những bất an, khổ não thành an vui, hạnh phúc. Không ai có thể làm thế cho chúng ta.

Nếu Đức Phật có thể ban sự bình an cho chúng ta thì Ngài đâu cần nhọc công dạy giáo pháp, thuyết giảng nhiều pháp môn tu tập để chúng ta dứt trừ phiền não, khổ đau, tìm thấy an vui, hạnh phúc. Ngài chỉ có thể chỉ cho chúng ta con đường, và chúng ta phải nỗ lực đi trên con đường đó theo sự hướng dẫn của Ngài. Không có chuyện người này đi mà người kia đến đích.

Còn Thượng đế, ông trời và các vị thần linh? Đức Phật đã dạy chúng ta: “Không nên tìm nương tựa bên ngoài”, bởi vì nương tựa bên ngoài là vô ích. Đức Phật là bậc siêu xuất tam giới mà còn không thể ban phước giáng họa cho chúng ta, vì không thể làm trái luật nhân quả, làm sao các vị trời, thần linh là những vị còn trong tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) lại có khả năng ban phước giáng họa, làm trái luật nhân quả. Điều này chúng ta dễ dàng thấy rõ, dù cho ai đó hết lòng tin tưởng cung kính, lễ bái, cúng dường, nhưng khi người đó tạo các nghiệp ác, bất thiện thì vẫn không tránh khỏi quả báo khổ đau. Thượng đế, ông trời và các vị thần linh không thể nào che chở, cứu vớt được. Nếu người đó không khéo sống, suy nghĩ, lời nói và hành động việc làm của người đó không chơn chánh, không tích cực thì đời sống sẽ gặp nhiều nỗi buồn hơn niềm vui, bất hạnh khổ đau nhiều hơn an vui hạnh phúc. Nếu người đó tạo nhiều nghiệp bất thiện do tham lam, sân hận, tật đố, kiêu căng, tà kiến (mê tín dị đoan, nhận thức sai lầm, si mê điên đảo) v.v… thì người đó không thể có được sự bình an trong cuộc sống. Không thánh thần nào có thể đem an vui đến cho người đó được.

Như thế thì sự bình an, hạnh phúc chỉ hiện hữu khi có niềm tin chơn chánh, đúng đắn và sự thực hiện niềm tin đó. Đức Phật là một nhân vật lịch sử, là người đã giác ngộ, những lời dạy của Ngài có giá trị vượt thời gian, chính đời sống an lạc, hạnh phúc của Ngài và các vị Thánh đệ tử là minh chứng cho những lời Ngài dạy, từ đó chúng ta có niềm tin vào giáo pháp của Ngài. Có niềm tin vào giáo pháp, chúng ta phải nỗ lực, gắng công thực hành. Trên bước đường thực hành, tức trong quá trình làm theo lời Phật dạy, áp dụng giáo pháp vào đời sống của mình, chúng ta tìm thấy được sự bình an, tìm thấy được hạnh phúc, từ đó niềm tin càng thêm vững chắc, sự thực hành càng tinh tấn, dũng mãnh hơn, nhờ đó chúng ta có được những gì mà trước kia mình mong muốn, ước vọng, đó là một đời sống bình an, hạnh phúc.

Phan Minh Đức

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Thông báo: Lịch Trình Chuyến Đi Mỹ Quốc Của Cư Sĩ Diệu Âm Úc Châu

Tháng 4/5- 2013

Tháng 4 – 2013

April 6-14/2013 : Tại Đạo Tràng Liên Trì Hải Hội ( Santa Ana Cali )

L/L : Hòa Thượng Thích Trí Đức 714-657-9191 or 951-325-8384

April 19-20-21/2013 : Tại Đạo Tràng Tịnh Độ ( Sacramento,Cali )

L/L : CS Xuân Hòa : 916 -247 -8157

April 23-24-25/2013 : Tại Niệm Phật Đường Huệ Quang ( Dallas,TX )

L/L : CS Minh Quang : 214 -901-0686

April 26-27-28/2013 : Tịnh Tông Học Hội Oregon

L/L : CS Tiểu Anh : 971 – 259 -8844

Tháng 5 – 2013

May 29-30-1-2/2013: Đạo Tràng Niệm Phật ( VanCoVer, Canada )

L/L : CS Diệu Hạnh 778-370-0762

May 3/2013: Đến Tư gia Cậu Tư

May 4-5/2013 : Tịnh Tông Học Hội Atlanta GA

L/L : CS Nguyên Minh 770-500-5060

May 6/2013 : Tọa Đàm Tại Tư Gia Diệu Âm TONY

L/L : CS Diệu Âm Tony 919-491 -9322

May 7-8/2013 : Niem Phat Duong NEW JERSEY

L/L : CS Thien Thong 484-798-5426

May 9-10/2013 : Tịnh Xá Liên Hoa Virginia

L/L : CS Phuong Doan 703-489-9739

May 11-12 :Dao Trang Washington State

L/L : CS Hạnh Chơn 425 -210-4530

May 13-14-15 Dao Trang Niem Phat ( Minnesota )

L/L : CS Hieu Ngoc 763-742-693

May 16-17/2013 : Tu Gia Niem Phat West PalmBeach

L/L : Liên Hữu Vân Khanh 561-716-4424

May 17-18-19/2013 : Tại Thư Viện Tịnh Độ Phổ Hiền ( Pinelllas Park, Fl )

L/L : CS Quảng Môn 727-776-0126

Ghi Chú : Chương trình của Diệu Âm Úc Châu có thể cập nhập thêm,xin mời chư liên hữu hãy cập nhập trang nhà của (www.tinhdophohien.com ) thường xuyên để biết them chi tiết.

Thư Viện Tịnh Độ Phổ Hiền

Trân Trọng Kính Báo

Nấm tốt cho sức khỏe

Bên cạnh tác dụng dược lý, kết hợp nấm trong chế độ dinh dưỡng thường ngày còn thêm nhiều lợi điểm.

Theo nhận định của tổ chức y tế thế giới (WHO), không dưới 70% trường hợp bệnh lý liên quan mật thiết với rối loạn biến dưỡng, hoặc do suy yếu sức đề kháng, hoặc vì cả hai. Hai nhân tố này bao giờ cũng có mặt trong bệnh mãn tính, nếu không trước khi phát bệnh thì sau khi được điều trị, hoặc trước có rồi, sau nặng hơn. Trên cơ sở vừa phân tích, bất cứ biện pháp nào vừa tăng cường sức đề kháng, vừa điều chỉnh biến dưỡng đều mang ý nghĩa phòng bệnh đồng thời gia tốc tiến trình phục hồi.

Khỏe re nhờ nấm! - 1

Bên cạnh tác dụng dược lý, kết hợp nấm trong chế độ dinh dưỡng thường ngày còn thêm nhiều lợi điểm (Ảnh: Internet)

Nếu nhà điều trị ở phương Tây mới dùng nấm như thuốc trong phác đồ điều trị nhiều bệnh chứng nghiêm trọng từ vài chục năm thì thầy thuốc y học cổ truyền phương Đông đã biết rất rõ về hiệu năng phòng và chữa bệnh của nấm từ nhiều ngàn năm. Mặt khác, cũng nhờ các nhà khoa học ở phương Tây trong vài thập niên gần đây đã chọn Đông y như nguồn tư liệu hàng đầu để nghiên cứu cho sản phẩm và liệu pháp mới nên tác dụng làm thuốc của nhiều loại nấm, từ đắt tiền vì hiếm có như Linh Chi, Đông trùng hạ thảo thứ thiệt cho đến các loại phổ thông như nấm mèo, nấm đông cô… đã được xác minh qua hàng loạt công trình khảo sát trên lâm sàng cũng như trong thực nghiệm.

Nếu Linh chi, Đông trùng hạ thảo… quá quen thuộc với người dân châu Á vì đã từ lâu có tên trong dược điển thuốc chống ung thư của nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… thì các loại nấm ngày nay cũng đang được nhiều thầy thuốc ở châu Âu kết hợp trong phác đồ điều trị bệnh mãn tính như thấp khớp, dị ứng, viêm gan… và nhất là cho bệnh nhân ung thư, từ khi các nhà nghiên cứu phát hiện hai đặc tính nổi bật của nhóm hoạt chất Betaglucan trong nấm.

Đó là tác dụng:

- Hưng phấn hoạt tính của thực bào và bạch cầu để truy sát tế bào ung thư.
- Cải thiện chức năng giải độc của lá gan, trái thận, khung ruột.
- Điều chỉnh biến dưỡng chất béo và chất đường.
- Ngăn ngừa thiếu dưỡng khí nội bào thông qua tác dụng cải thiện tuần hoàn vi mạch.
- Ức chế tác hại của siêu vi gây ung thư.
- Trung hòa độc chất sinh ung thư nội tại cũng như ngoại lai.

Tổ chức FDA ở Hoa Kỳ chắc chắn phải có lý do vững chắc khi xếp nấm vào nhóm thực phẩm phòng ngừa ung thư. Bên cạnh tác dụng dược lý, kết hợp nấm trong chế độ dinh dưỡng thường ngày còn thêm nhiều lợi điểm nhờ công năng:

- Ổn định thể trọng ở người có khuynh hướng béo phì.

- Cân bằng đường huyết ở người bệnh tiểu đường có lượng đường trong máu dễ dao động.

- Hỗ trợ tác dụng của nhiều loại dược phẩm như thuốc trị bệnh gút, giảm đau, cao huyết áp, trầm cảm… Người bệnh nhờ đó giảm được liều lượng nghĩa là giới hạn phản ứng phụ khi dùng dài lâu.

- Cải thiện tiêu hóa cho người hay táo bón nhờ chất xơ trong nấm vừa nhuận trường vừa kéo theo chất béo trong thực phẩm qua đường ruột.

Vì Betaglucan là 1 nhóm hoạt chất với thành phần không đồng nhất về hàm lượng trong mỗi loại nấm nên nếu phối hợp nhiều loại nấm trong khẩu phần bao giờ cũng có lợi hơn chỉ dùng độc vị. Nhiều tay vỗ nên tiếng, nhiều mặt giáp công bao giờ cũng hữu hiệu hơn khi đối đầu với bệnh nguyên tram mưu ngàn chước. Ăn ngon mà nên thuốc còn gì hơn?

http://us.eva.vn/suc-khoe/khoe-re-nho-nam-c131a125105.html

Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

Lược khảo về quan hệ thầy trò trong kinh, luật Phật giáo

Chúc Phú   

Truyền thống tốt đẹp này do Ta thiết lập, các ông hãy tiếp tục duy trì.
Các ông chớ có thành người tối hậu sau Ta (1).    

Trong các mối quan hệ của con người nói chung, quan hệ giữa thầy và trò là một trong những mối quan hệ cơ bản. Quan hệ này có khả năng ảnh hưởng và chi phối đến năng lực, tính cách, phẩm vị, đạo đức, niềm tin… của một con người, một dân tộc và thời đại. Với Phật giáo, mối quan hệ giữa thầy và trò là mối quan hệ giữa sự truyền thừa và kế tục những giá trị nhân văn mang tính toàn nhân loại. Trong dòng chảy phát triển lịch sử của xã hội, sự hiện hữu của quan hệ thầy - trò tạo nên tính ưu thắng riêng có của con người và xã hội loài người. Quan hệ thầy - trò có nhiều dạng thức, biện biệt. Nơi đây, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát mối quan hệ đó được đề cập trong kinh, luật Phật giáo.

Quan hệ thầy - trò, nhìn từ lịch sử kinh điển

Lý tưởng cơ bản của đạo Phật được gói gọn trong bốn chữ: tự độ - độ tha. Muốn tự độ, thì điều kiện tiên quyết là phải có sự nương tựa, hướng dẫn, chỉ bày. Đó cũng là lý do mà ba pháp quy y được xem là cửa ngõ đầu tiên của hành trình tự độ và đồng thời đó cũng là tiêu chuẩn để xác tín là một người con Phật đúng nghĩa. Ai quy y Phật, này Mahànàma, quy y Pháp, quy y chúng Tăng. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ(2). Từ sự nương tựa đầu tiên này, tức là kể từ khi xem Phật là bậc Thầy dẫn đường vĩ đại, thì mối quan hệ thầy - trò được xuất hiện, định hình.

Cần phải thấy, sự trưởng thành của một con người do bởi sự hỗ trợ và nâng đỡ của nhiều người và nhiều điều kiện nhân duyên khác. Nói chính xác, sự vững chãi về tri thức của một con người do bởi sự hướng dẫn của nhiều vị thầy. Ngay như bản thân của Bồ-tát Siddhartha, trước đêm thành đạo, Ngài cũng đã tầm cầu học hỏi từ nhiều vị thầy. Từ đó, có thể thấy rằng, để thành công trên bước đường tu tập, người đệ tử Phật cần phải thụ giáo từ nhiều vị thầy như thầy thế phát xuất gia, thầy giáo thọ, thầy A-xà-lê…

Trong tất cả những vị thầy đó, Đức Phật Thích Ca vẫn được xem là vị thầy cội nguồn cho tất cả. Vì lẽ, nhờ Đức Phật đã khai mở con đường để tất cả chúng ta thấy rõ lối đi. Có lẽ chính vì vậy mà tôn hiệu Bổn sư thường được hậu thế tôn xưng và ngưỡng vọng. Câu chuyện cảm động về chàng thanh niên Pukkusati được ghi lại trong kinh Trung bộ(3) là một  hình tượng đẹp về việc nương tựa Thế Tôn làm bậc thầy của mình. Kinh ghi, mặc dù chưa một lần diện kiến Đức Phật, nhưng do đặt trọn lòng tin vào Đức Thế Tôn, thanh niên Pukkusati tự mình cạo đầu xuất gia, hướng Thế Tôn làm chỗ nương tựa, y cứ. Nhân duyên gặp Phật trong một lò gốm, Pukkusati chưa nhận ra ngay và sẵn sàng chia sẻ chỗ ngủ cùng Đức Phật. Chỉ khi Đức Phật thuận thứ thuyết giảng thì Pukkasati mới hốt hoảng nhận ra rằng, người mà mình chia sẻ chỗ ngủ trong đêm chính là Đức Thế Tôn mà từ lâu mình đã đặt trọn niềm quy ngưỡng. Sự khẳng định của Pukkasati: “Tôi đã xuất gia, y cứ bậc Thế Tôn ấy. Ngài là bậc Ðạo sư của tôi. Và tôi chấp thuận pháp của bậc Thế Tôn ấy”(4) còn mang một ý nghĩa thời sự trong thời đại hôm nay. Vì lẽ, tuy chưa một lần gặp Phật, nhưng chúng ta vẫn một lòng tin tưởng vào Ngài, y cứ vào Ngài và giáo pháp của Ngài, thì Đức Phật đã trở thành một vị thầy vĩ đại, và chúng ta là một người học trò nhỏ nhoi trong trường học rộng lớn của Người.

Trách nhiệm và bổn phận của thầy và trò

Đức Phật là một bậc thầy với đầy đủ trách nhiệm ở mọi nghĩa cụ thể. Dẫu người học có đa dạng và đủ mọi tầng lớp, dẫu có nhiều khác biệt ở các cảnh giới, ngữ nghĩa, giới tính, không gian… nhưng Đức Thế Tôn đã tùy nghi đem lại lợi lạc cho tất cả. Sự nghiệp giáo hóa vĩ đại của Đức Phật là bản trường ca bất tận về trách nhiệm của người thầy cùng bổn phận tương ứng của những học trò. Từ đây có thể thấy, theo giáo pháp của Đức Phật, để được làm thầy đúng nghĩa quả là điều không dễ dàng.

1. Chuẩn mực và trách nhiệm của người thầy

Điều kiện cần của một người thầy đúng nghĩa, đó là phải có tri thức và cả đạo đức. Có tri thức mới có thể sẻ chia tri thức ấy cho người, có đạo đức mới có thể làm chỗ dựa cho học trò nương tựa và y cứ. Đạo đức là nền tảng mà mọi hạt giống tri thức được gieo trên đó. Nền tảng vững chãi thì vụ mùa sẽ bội thu. Từ hệ quy chiếu này có thể thấy, chỉ có tri thức không thôi vẫn chưa đủ điều kiện để hoàn thiện phẩm vị của một người thầy theo tiêu chuẩn của Phật giáo.

Vì lẽ, theo kinh Tăng chi, một bậc thầy đúng nghĩa, thì tiêu chuẩn đầu tiên là phải “sống với sự chế ngự của giới bổn, và là người nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, cất chứa điều được nghe”(5). Trong mười điều kiện làm thầy được ghi ở luật Ma-ha Tăng-kỳ (Mahasanghika)(6) cũng xác chứng việc tương tự. Giới ở đây cần được hiểu rộng ra là những nguyên tắc sống, là những chuẩn mực đạo đức căn bản của con người. Bên cạnh đó, năng lực sở hữu tri thức là một trong những điều kiện cần để khẳng định vị trí của một người thầy. Một người thầy thì phải am tường lãnh vực mà mình đảm trách. Để rồi từ đó mới có thể “huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyện; dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; dạy cho thuần thục các nghề nghiệp”(7).

Phẩm vị người thầy đã được người xưa ví von như chức vụ do trời ban (thiên chức) do bởi tính đặc thù riêng có của phẩm vị này. Hơn thế nữa, trong kinh điển Bắc truyền, phẩm vị người thầy còn tỏa sáng rực rỡ ở những chuẩn mực cao tột: “Một lòng dạy dỗ, xem họ như đứa con một của mình, mà không cầu sự trả ơn, không vì tiếng tăm, không vì lợi dưỡng, cũng không cầu sự vui cho chính mình”(8). Dạy học trò với tâm thế như dạy con một thì hiệu quả học tập sẽ được khẳng định vững chãi. Vì lẽ, khi tình thương luôn xuất hiện trong quá trình giảng dạy thì hiệu quả tiếp thu của học trò sẽ được tiến triển rất nhiều. Không những thế, với tâm lượng không vì danh vọng, lợi dưỡng khi dạy học trò, điều đó đã làm cho hình ảnh cũng như phẩm vị người thầy trở nên rất mực cao cả, thiêng liêng.

Một người thầy đúng chuẩn còn phải có một khả năng nắm bắt tâm lý của học trò. Hiểu rõ đối tượng, hiểu rõ những biến chuyển tâm lý của học trò để khích lệ, tưởng thưởng chúng, là một trong những điều kiện thành công của quá trình giáo dục. Cụm từ “có khả năng khích lệ”(9) đệ tử được sử dụng trong kinh Tăng chi và cụm từ “khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc”(10) được sử dụng trong kinh Trường bộ đã đồng thời xác tín sự tưởng thưởng, ca ngợi đúng lúc và kịp thời là một trong những trách vụ cần làm của một người thầy đúng mực.

Căn tánh của học trò thì đa dạng cho nên tùy theo đối tượng để có một phương thức hỗ trợ, bảo ban. Nói rõ hơn, giải pháp trách phạt ở một chừng mực nào đó được chấp nhận trong cách hành xử của người thầy. Ngay như Đức Phật, trong những trường hợp cụ thể, đối với những căn cơ cụ thể, Ngài vẫn áp dục hình thức la mắng và thậm chí nặng nề là phải đuổi người ấy đi. Trường hợp Tỳ-kheo Vakkali là minh chứng điển hình cho phương thức giáo dục đặc thù này. Kinh ghi, Vakkali tuy thân cận Đức Phật nhưng không chú tâm nghe pháp, mà chỉ chăm chú nhìn ngắm dung nhan của Đức Thế Tôn. Mặc dù Đức Phật đã nhiều lần khuyên bảo nhưng Vakkali vẫn chứng nào tật đó. Do vậy, “Bậc Ðạo Sư nghĩ rằng: ‘Tỳ-kheo này, nếu không được xúc động mạnh, sẽ không thức tỉnh’, nên vào cuối ngày an cư mùa mưa, Đức Phật nói: ‘Này Vakkali, hãy đi đi’. Nghe bậc Ðạo sư nói vậy, ngài tự nghĩ ngài phải đi, nhưng nghĩ rằng đời ngài có ý nghĩa gì, nếu không được gặp bậc Ðạo sư, nên ngài có ý định leo lên núi Linh Thứu để gieo mình xuống vực núi tự tử”(11). May mắn thay cho Vakkali, với tuệ giác siêu tuyệt, Đức Phật đã thị hiện đúng thời điểm để khai ngộ cho Vakkali trước thời khắc nguy khốn của đời mình. Điều kiện cần để có thể áp dụng phương thức giáo dục đặc thù này là tầm mức trí tuệ cũng như bản lĩnh của người thầy. Nếu như vận dụng không thích hợp hoặc quá đáng, thì hậu quả sẽ là bất hạnh, khổ đau. Hình ảnh dùng gai nhọn để chích lễ vết thương đang làm mủ là ẩn dụ sinh động để biểu thị cho trường hợp này. Vết thương sẽ lành nếu gặp được bàn tay của y sĩ bậc thầy và ngược lại.

Trong một vài quan hệ thầy - trò đặc thù, ngoài những chuẩn mực căn bản nêu trên, người thầy còn có khả năng chăm lo điều kiện sống cũng như năng lực bảo hộ sức khỏe cho người đệ tử. Ngay từ thời Đức Phật, Ngài đã có những quan tâm hết mực xác đáng đến không gian tu tập và điều kiện sống của học trò. Đọc Trưởng lão Tăng kệ có thể thấy, đã có những vị đệ tử do nóng lòng nỗ lực chuyên tu nên lánh tận rừng sâu thiền định. Trong một vài trường hợp, có vị ngã bệnh vì không đủ sức khỏe để chuyên tu. Biết vậy, Đức Phật liền răn dạy: “Thầy sống trong rừng sâu/ Chỗ khất thực hạn chế/ Thân gầy mòn ốm yếu/ Tỳ-kheo sẽ làm gì?/ Với thân thể như vậy?”(12). Theo Đức Phật, một chỗ ở lý tưởng dành cho người học trò, đó là “tại trú xứ ấy, tìm được không mệt nhọc các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh”(13). Kinh điển Bắc truyền cũng đồng thời xác tín: “Khi đệ tử bệnh phải chăm sóc cho họ, mà không sinh tâm chán ghét”(14). Cần phải thấy, ở thời Phật, vấn đề ẩm thực về cơ bản là tự túc xin ăn. Ngay như bản thân Đức Thế Tôn hàng ngày vẫn tự mình mang bát khất thực. Mặc dù vậy, với những Tỳ-kheo bệnh tật, ốm đau, hoặc không đi khất thực được, Đức Phật huấn thị các Tỳ-kheo khác hãy sớt bát, sẻ chia thức ăn cho những người đồng tu thiếu phước nêu trên. Trách vụ chăm lo và bảo hộ sức khỏe cho người học trò càng có ý nghĩa thiết thực hơn bao giờ hết đối với thầy thế độ, thầy y chỉ, thầy bổn sư… trong bối cảnh chùa chiền và Tăng chúng ngày càng phát triển như hôm nay.

Ngoài những trường hợp đặc thù là gặp phải những học trò bất trị, vô phương cứu chữa, thì nhìn chung, đã làm thầy thì phải nỗ lực dạy dỗ học trò, đệ tử bằng tất cả những gì có thể. Nhận học trò mà không quan tâm dạy dỗ, hoặc dạy dỗ không đúng mức là điều không thể chấp nhận đối với một người thầy. Kinh luận Bắc truyền đã khẳng định dứt khoát: “Làm bậc thầy thâu nhận đệ tử mà không biết giáo dục là một trọng tội”(15). Không chỉ dừng lại ở đó, kinh Ưu-bà-tắc còn đẩy trách vụ này lên nhiều cấp độ khi xem đó là tội cực trọng. Kinh ghi: “Thiện nam tử! Chẳng thà thọ ác giới, trong một ngày giết vô lượng chúng sinh, quyết không nuôi dưỡng đệ tử ác mà mình không thể dạy dỗ. Vì sao? Phạm giới ác, chỉ liên hệ đến thân mình, còn nuôi đệ tử ác mà không dạy dỗ, có thể khiến cho vô lượng chúng sinh làm ác, có thể làm chúng sinh hủy báng vô lượng pháp lành vi diệu, phá hòa hợp Tăng, làm cho nhiều chúng sinh phạm tội ngũ nghịch. Do đó, còn ác liệt hơn tội ác luật nghi(16). Mặc dù có phần khắt khe, song đoạn kinh trên đã đề xuất và hướng tới một hình mẫu lý tưởng về người thầy. Vì lẽ, căn cứ vào tình hình thực tế của hàng chuỗi những sự việc phức tạp, đã và đang diễn ra trong lịch sử thăng trầm của Phật giáo, có thể xác chứng rằng, việc dạy dỗ học trò không nghiêm sẽ để lại những di họa, mà ảnh hưởng tiêu cực của chúng không chỉ giới hạn trong một đời người.

2. Bổn phận của người học trò

“Không có sư trưởng thế gian thì không biết lễ nghĩa, không có sư trưởng xuất thế thì không hiểu Phật pháp. Lễ nghĩa không biết thì khác gì cầm thú, Phật pháp không hiểu thì cũng như phàm tục”(17). Sự khẳng định này một lần nữa khẳng định vai trò tối thắng của người thầy, để rồi từ đó, người học trò cần phải hoàn thành những bổn phận nhất định để có thể hành xử tương ứng trong mối quan hệ này.

Đã là người học trò, tiêu chí đầu tiên là phải “hăng hái học tập”(18) “chú tâm học hỏi nghề nghiệp”(19). Phải ý thức rằng, được tiếp cận tri thức, được đi học, được gặp thầy tốt là một phước báo cho bất cứ ai khi sống trong đời. Với một số xã hội phát triển, được đi học là một trong những quyền cơ bản của con người, mang tính nhân văn và luôn được xã hội đảm bảo. Vì lẽ, có tri thức là nền tảng để có tất cả. Cần phải thấy rằng, mọi bất hạnh, khổ đau trong cuộc đời đều bắt nguồn hoặc có sự liên quan từ sự thiếu vắng tri thức. Trong tất cả những bất hạnh thì vô minh là bất hạnh cùng tột. Do đó, nỗ lực học tập, “hăng hái học tập” bằng tất cả những gì có thể là điều kiện cần của người học trò dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Tâm thế đúng của người học là phải chú tâm. Chú tâm là sự tập trung đến mức có thể vào sở học của mình. Trong lãnh vực học tập, chú tâm là tiền đề để gặt hái tri thức. Chú tâm giúp cho việc ghi nhận tri thức tốt hơn. Nhờ sự chú tâmhăng hái học tập, tri thức của người học trò sẽ từng bước được kiện toàn và để cuối cùng, sự thành đạt vững chãi của người học trò là tưởng thưởng lớn nhất trong cuộc đời giảng dạy của người thầy.

Với người học trò, tri thức là điều kiện cần nhưng đạo đức cũng là một điều kiện đủ. Nói rõ hơn, học hỏi tri thức phải song hành với việc kiện toàn đạo đức. Vì đạo đức và tri thức có sự liên hệ tác động lẫn nhau. Đạo đức làm cơ sở để nảy sinh tri thức và có tri thức giúp việc ứng xử đạo đức trở nên thuần thục và chuẩn mực. Kinh ghi: “Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời”(20). Giới hạnh là một cách biểu đạt khác về đạo đức. Chính vì vậy mà một người học trò cần phải biết hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức căn bản, bắt đầu từ những ứng xử mang tính nhỏ nhặt như: cung kính tuyệt đối với thầy của mình. Thầy đến, phải “đứng dậy để chào; hầu hạ thầy; tự phục vụ thầy” (21)Muốn có đạo đức thì phải huân tập, rèn luyện. Nền tảng đạo đức của người học trò không phải từ trên trời rơi xuống mà bắt đầu từ những thực tập mang tính nhỏ nhặt vừa nêu.

Với Phật giáo, khởi đầu của quá trình giáo dục là sự kiện toàn nền tảng đạo đức. Dù bất cứ lãnh vực kiện toàn tri thức nào đi chăng nữa, việc nhuần nhuyễn về ứng xử đạo đức là chuẩn mực cần có của người học trò. Trong những gương sáng được lưu lại trong kinh điển về việc phục vụ thầy, thì Tôn giả Ananda là điển hình cho một người học trò rất mực tận tụy. Trong hai mươi bốn năm ròng hầu Đức Thế Tôn, ngài Ananda chưa hề chểnh mảng chức phận. Kinh ghi: “Ananda hầu hạ Thế Tôn, đem nước, đem tăm xỉa răng, rửa chân, đi theo Thế Tôn, quét phòng cho Thế Tôn. Ban ngày, Ananda ở một bên Đức Phật, nhắc nhở những điều cần làm; ban đêm cầm đèn và gậy. Ananda đi xung quanh phòng Đức Phật sẵn sàng đáp ứng nếu Thế Tôn có gọi. Thế Tôn tại Jetavana, xác chứng Ananda là vị Tỳ-kheo đệ nhất về năm phương diện: Ða văn, tâm tư cảnh giác, sức mạnh đi bộ, lòng kiên trì, và sự hầu hạ chu đáo”(22). Có thể, chuẩn mực hầu thầy của ngài Ananda mang dáng vẻ là hình mẫu lý tưởng, mặc dù vậy, sự thể hiện bổn phận chăm lo cho thầy bằng những gì có thể, là bổn phận quan thiết của một người đệ tử, học trò, là điều có thể nhận ra trong đoạn trích dẫn vừa nêu.

Mặc dù cẩn trọng trong trách vụ hầu thầy, tuy nhiên lộ trình chứng Thánh của Tôn giả Ananda cứ lận đận mãi đến khi cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất sắp sửa diễn ra. Từ sự cương quyết của Tôn giả Ca Diếp, ngài Ananda đã chứng ngộ Thánh quả và đã tích cực góp phần vào công cuộc kiết tập kinh điển đầu tiên. Ở đây, tiến trình tu tập và chuyển hóa tâm linh, được xem là trách vụ cần có của một người học trò trên lộ trình tu Phật.

Sống trong biển, phải biết vị mặn của biển ra sao. Cũng vậy, thân cận Thánh nhân, phải nỗ lực bằng tất cả những gì có thể để bước vào dòng Thánh. Đó là điều cũng được Đức Phật cân nhắc chỉ bày: “Này các Tỳ-kheo, nếu một Tỳ-kheo nắm lấy viền áo Tăng-già-lê đi theo sau lưng Ta, chân bước theo chân, nhưng vị ấy có tham ái trong các dục, với lòng sắc sảo, với tâm sân hận, ý tư duy nhiễm ác, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại, vị ấy xa hẳn Ta và Ta xa vị ấy. Vì cớ sao? Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ấy không thấy Pháp. Do không thấy Pháp nên không thấy Ta. Này các Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo sống xa đến một trăm do-tuần và vị ấy không có tham ái trong các dục, với lòng tham không sắc sảo, tâm không sân hận, ý tư duy không nhiễm ác, chánh niệm tỉnh giác, định tĩnh nhất tâm, các căn được chế ngự, vị ấy gần hẳn Ta và Ta gần vị ấy. Vì cớ sao? Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ấy thấy Pháp. Do thấy Pháp nên thấy Ta”(23). Đã là học trò, ít nhất cũng phải hoàn thiện những phẩm chất của bậc thầy. Thầy là bậc đã giác ngộ, thì học trò phải nỗ lực làm sao để được như thầy. Đó cũng là điều mà Đức Thế Tôn luôn trông đợi, tin tưởng và gửi gắm cho tất cả những học trò của mình. Trên phương diện liên hệ xã hội, một người học trò dù ở nghĩa nào đi chăng nữa thì cần phải tiếp thu và kế tục những giá trị mà thầy mình đã tận tâm truyền thụ. Bổn phận quan trọng này của người học trò có thể biểu đạt nôm na trong nghĩa giản đơn, đó là: Thầy như thế nào, thì học trò phải cố gắng đạt được như thế ấy.

3. Vài suy nghĩ về đạo nghĩa thầy trò hôm nay

Sự dịch chuyển và va đập của những hệ giá trị xã hội bao gồm không gian, điều kiện, quan niệm, lý tưởng sống… trong thời đại ngày nay đã tác động rất lớn đến những quan hệ truyền thống, đôi khi làm biến dạng cơ bản những hệ giá trị nhân bản mà nhân loại đã nhọc công tạo dựng. Quan hệ thầy - trò trong thời đại hôm nay ít nhiều cũng chịu sự tác động và ảnh hưởng đó.

Trong quan hệ thầy - trò ở chuẩn mực xuất thế gian, cụ thể là người xuất gia, đã có những hình tượng đẹp về tư chất của người thầy và hành xử tương ứng của đệ tử. Quả thật, nếu như đòi hỏi phải kiện toàn những phẩm chất người thầy theo tiêu chuẩn căn bản từ kinh điển thì rất ít người xuất gia thời nay hội đủ. Mặc dù vậy, ba chuẩn mực cơ bản của phẩm vị người thầy như đạo đức, tri thức và tình thương là điều mà các vị ấy có thể kiện toàn ở một giới hạn nhất định. Vì thực tế, có những bậc thầy đã sống với căn bản phạm hạnh, cùng với tri thức hữu hạn và tình thương của mình, các vị ấy đã ghi vào lịch sử quan hệ thầy trò bằng những cảm tác chân thực của đệ tử khi viết về thầy của mình. Hơn thế nữa, những thành tựu khởi sắc của Phật giáo trong tất cả các lãnh vực không phân biệt dân tộc, không gian, trú xứ… đã minh chứng cho sự kế tục, phát triển của tình thầy - trò.

Trên một chiều kích khác, tuy chưa phải là tất cả, nhưng đã có những lúng túng, bất cập nảy sinh từ quan niệm “Trời sanh voi sanh cỏ” trong tư duy cũng như cách hành xử không đúng mực của nhiều vị thầy. Cần phải thấy rằng, quan hệ thầy - trò trong Phật giáo là một quan hệ đặc thù và rất nghiêm túc ở tất cả các nghĩa. Vì phận làm thầy, riêng đối với mối quan hệ giữa người xuất gia, còn có ý nghĩa vừa là làm cha, làm mẹ ở cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Độ đệ tử, phải có tâm có tầm và có khả năng lo cho đệ tử. Đó là chân lý được xác tín từ lâu trong kinh điển. Trong trường hợp này, có lẽ do không ý thức rõ bản thân mình nên đã có những người đã làm thầy trong khi chưa hội đủ những tố chất cần và đủ cho phẩm vị ấy. Từ thực tế đã có những cá nhân với sơ tâm tinh khiết, dấn thân vào đạo và gửi gắm toàn bộ đời mình cho thầy. Bất cập và bất hạnh đã nảy sinh từ đây, vì gặp phải những vị thầy không như trông đợi. Đó là một trong những lý do phát sinh những tác tệ, làm hoen ố hình ảnh Phật giáo mà xét đến cùng, thì lỗi lầm không thể quy hẳn cho một mình người học trò. Trường hợp này, xét về mặt lịch sử kinh điển thì thời nào cũng có, chỉ khác biệt ở quy mô và mức độ mà thôi. Căn cứ theo luật Phật, gặp phải trường hợp đó, người đệ tử có quyền tự chọn giải pháp cho mình bằng cách tìm cầu một vị minh sư mới. Nếu như vì điều kiện bắt buộc không thể lìa thầy thì giải pháp y pháp bất y nhân là một gợi ý tham khảo trong trường hợp này.

Cửa Phật rộng mở cho tất cả mọi người. Cũng từ đặc tính này nên có những cá thể chưa liệu được sức mình, chưa chuẩn bị tốt tư lương nhưng đã phát tâm nhập đạo. Đây cũng là lý do làm cho nhiều vị thầy rất vất vả và đôi khi khó hoàn thành tốt chức phận của mình. Câu chuyện về Tỳ-kheo Ramanìyavihìrim (người sống trong dục lạc) được ghi lại trong kinh Tiểu bộ là một trường hợp điển hình về việc không từ bỏ những thói quen xấu, mà thầy ấy đã huân tập từ đời sống thế tục trước đó. Mặc dù vậy, câu chuyện thực sự có hậu khi thầy ấy chiêm nghiệm thật sâu về hình ảnh con bò kiệt quệ sức lực khi phải kéo cỗ xe: “Con bò này đã vấp ngã nhưng đã đứng dậy và kéo đi gánh nặng của mình. Vậy ta phải tinh tấn, sau khi rơi vào rừng nhục dục, cần phải đứng dậy và làm tròn bổn phận của người tu hành”(24). Tính chất nâng đỡ, hỗ trợ cho những người học trò lầm lạc nhưng biết tỉnh ngộ quay về, đã nói lên tính nhân văn cao cả của giáo dục Phật giáo nói chung và quan hệ thầy -  trò nói riêng.

Trên phương diện chuẩn mực thầy - trò theo quan niệm xã hội, mặc dù thời nay đã có những bước phát triển đáng mừng về chuẩn mực người thầy và bổn phận học trò. Song, vẫn còn đó những nỗi lo cùng tột vì khi quan hệ đó đã và đang bộc lộ ra những vấn đề tiêu cực, hủ bại làm hoen ố hình ảnh người thầy và tư chất của học trò. Chỉ cần vài thao tác tìm kiếm thông tin trên các trang mạng, kết quả sẽ làm cho chúng ta choáng ngợp, u hoài. Chuyện giáo viên uống rượu ẩu đả nhau đến mức mất mạng(25), chuyện hiệu trưởng, giáo viên háo sắc ngay cả với học trò của mình(26); chuyện học trò xông vào tận trường học đánh thầy cô(27), chuyện học trò chưa tốt nghiệp phổ thông dắt nhau đi nhà nghỉ(28)… những thông tin đó đã gióng lên hồi chuông báo động về chuẩn mực đạo đức của người thầy và tư chất của học trò.

Trong lãnh vực đào tạo chuyên môn, đã có rất nhiều cơ sở giáo dục luôn tự nhận và hãnh diện rằng, đã cung cấp cho xã hội hàng vạn giáo viên đầy đủ chuẩn mực qua những văn bằng đỏ chói. Thử hỏi trong những môn học của chương trình đào tạo, ngoài kiến thức chuyên ngành luôn dành trọn sự quan tâm thì có bao nhiêu thời gian tập trung vào việc huấn luyện và tu dưỡng đạo đức? Có kiến thức chuyên ngành về giáo dục, nhưng không có đạo đức cơ bản của con người nói chung và của người thầy nói riêng thì thử hỏi nguồn nhân lực được đào tạo đó sẽ cống hiến gì cho xã hội hôm nay? Và như vậy, biện chứng giữa tài và đức(29) mà tiền nhân đã khẳng định có còn được xem là chuẩn mực tối cần trong phẩm vị của người thầy? Nên chăng, với những chức phận thiêng liêng mà lịch sử xã hội xưa nay tôn trọng và giao phó, ngoài kiến thức chuyên môn được đào tạo, cần phải có những chuẩn mực đặc thù về nhân cách, lối sống, đạo đức riêng có dành cho phẩm vị này. Thử tham khảo chuẩn mực đào tạo một phi công thời nay, thì đủ thấy các quy chuẩn được thiết lập khắt khe đến thế nào? Phi công thao tác sai thì gây nguy hiểm cho vài trăm người, nhưng định hình một người thầy không đúng mực thì di họa cả nhiều thế hệ tiếp theo.

Việc các bậc làm cha mẹ thời nay khao khát con cái mình sở hữu tri thức quá sớm, mong mỏi đào tạo con mình hướng về tiêu chuẩn công dân toàn cầu, mà không đặt nặng và thậm chí là bỏ quên các giá trị đạo đức nhân văn khác, đã làm cho ý thức hệ của người trẻ bị dịch chuyển theo chiều hướng quan ngại. Đã có những đứa trẻ bị đánh mất tuổi thơ trong sự quan tâm quá mức của bố mẹ. Đã có những người trẻ chỉ dành toàn bộ thời gian cho việc học và ăn ở nghĩa đen cụ thể. Bên cạnh đó, sự lỏng lẻo trong quan hệ gia đình, sự tiếp biến các giá trị văn hóa không được chọn lọc… đã làm cho tư duy, xu hướng cảm thụ, lý tưởng sống của người trẻ bị lệch chuẩn truyền thống. Từ những sự ảnh hưởng, tác động đó, cộng với một vài trường hợp tiêu cực từ thầy, cô, được báo chí đưa tin, đã làm cho người học trò thời nay nhận thức méo mó, sai lệch về thầy, cô của mình. Mặt khác, sự chuyển dịch quan niệm lấy thầy cô làm trung tâm đến việc xem người học trò làm tâm điểm trong lý thuyết giáo dục ngày nay, đang bộc lộ ra những vấn đề bất cập, và đôi khi được nhận thức không đầy đủ và không đúng từ cả hai phía thầy và trò.

Với người học trò, cần phải ý thức sâu sắc rằng, dù ở nghĩa nào đi chăng nữa thì quan hệ thầy trò không phải là quan hệ bình đẳng, mang tính đổi chác. Vì lẽ, sự quan tâm, tấm lòng, cái tâm của thầy cô… là những giá trị không thể cân đong đo đếm và lẽ tất nhiên là không thể quy đổi bằng bất cứ hiện thực vật chất nào. Với người học trò, có lẽ tặng phẩm lớn nhất đối với thầy, cô chỉ có thể gói gọn trong hai chữ biết ơn. Với Phật giáo, đó là tặng phẩm lớn nhất và không phải ai cũng có thể thực hiện được. Trong kinh Tăng chi, Đức Phật đã long trọng tuyên bố: “Có hai hạng người này, này các Tỳ-kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai? Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm. Hai hạng người này, này các Tỳ-kheo, khó tìm được ở đời”(30). Thầy, cô là những người đã thi ân trước và bổn phận của ta, của người học trò là phải nhớ ơn và biết nỗ lực báo đáp những khi có thể.

Kết luận

Cuộc sống là sự ràng rịt trùng trùng của vô vàn mối quan hệ. Có những quan hệ làm cho cuộc sống nở hoa và cũng có những quan hệ dẫn tới những khổ đau, bất trắc. Quan hệ thầy - trò là một trong những quan hệ có cùng lịch sử phát triển với tri thức của con người. Tri thức con người phát triển tới đâu thì lịch sử quan hệ thầy - trò lưu dấu ấn đến đó. Sở dĩ nhân loại vượt thoát khỏi thời kỳ u mê tăm tối và vươn lên đỉnh cao nhân bản, nhân văn thì công lao đầu tiên cũng do bởi mối quan hệ thầy - trò. Để duy trì mối quan hệ này luôn vững chãi thì liệu pháp đầu tiên là cần có một sự thẩm sát, sâu sắc về chúng. Nói rõ hơn, một khi thầy và trò hoàn thiện những chuẩn mực và bổn phận tương ưng của mình, thì khi ấy quan hệ thầy trò sẽ luôn tỏa sáng. Và như một lẽ tất nhiên, sự duy trì và phát triển vững mạnh mối quan hệ này, sẽ đóng góp cho nhân loại nói chung và Phật giáo nói riêng những giá trị không thể kể bằng lời. 

(1) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Makhadeva.

(2) Kinh Tương ưng, tập 5, chương 11 pháp, phần b, Tương ưng dự lưu, phẩm Phước đức sung mãn, kinh Mahanama.

(3) Kinh Trung bộ, tập 3, kinh số 140, kinh Giới phân biệt.

(4) Kinh đã dẫn

(5) Kinh Tăng chi, chương 10 pháp, phẩm Upali và Ananda, kinh Cụ túc giới.

(6) Luật Ma-ha-tăng-kỳ, Thích Phước Sơn, dịch, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2003, tr. 421.

(7) Kinh Trường bộ, tập 2, kinh Giáo thọ thi ca la việt.

(8) HT. Tịnh Nghiêm dịch, Kinh ưu-bà-tắc giới, Phẩm Mười ba, Thâu phục đệ tử.

(9) Kinh Tăng chi, chương 10 pháp, phẩm Upali và Ananda, kinh Cụ túc giới.

(10) Kinh Trường bộ, tập 2, kinh Giáo thọ thi ca la việt.

(11)  Kinh Tiểu bộ, tập 3, Trưởng lão tăng kệ, chương Năm, phẩm Năm kệ, Vakkali.

(12)  Kinh đã dẫn

(13)  Kinh Tăng chi, chương 10 pháp, phẩm Hộ trì, kinh Trú xứ.

(14)  HT. Tịnh Nghiêm dịch, Kinh ưu-bà-tắc giới, Phẩm Mười ba, Thâu phục đệ tử.

(15)  Hòa thượng Thích Trí Thủ, Yết ma yếu chỉ, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2006, tr. 82.

(16  HT. Tịnh Nghiêm dịch, Kinh ưu-bà-tắc giới, Phẩm Mười ba, Thâu phục đệ tử.

(17)  Đại sư Thật Hiền, Phát Bồ đề tâm văn, Hòa thượng Trí Quang, dịch, bản ấn tống 1997, tr.44.

(18)  Kinh Trường bộ, tập 2, kinh Giáo thọ thi ca la việt.

(19)  Kinh đã dẫn

(20)  Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Chủng Đức, Sonadana.

(21) Kinh đã dẫn

(22) Kinh Tiểu bộ, tập 3, Trưởng lão tăng kệ, chương Mười bảy, phẩm Ba mươi kệ, Ananda.

(23) Kinh Tiểu bộ, kinh Phật thuyết như vậy, chương Ba pháp, phẩm Ba.

(24) Kinh Tiểu bộ, tập 3, Trưởng lão tăng kệ, chương Một, phẩm Năm, Ramanìyavihìrim.

(25) Báo Pháp Luật, ngày 28-10-2011.

(26) Báo điện tử vnexpress.vn, ngày 7-11-2009.

(27) Báo điện tử vnexpress.vn, ngày 16-1-2011.

(28) Báo điện tử vnexpress.vn, ngày 30-11-2011.

(29) Hồ Chí Minh toàn tập,  tập 5, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2002, tr. 252-253.

(30) Kinh Tăng chi, chương 2 pháp, phẩm Các hy vọng.

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-15883_5-50_6-1_17-17_14-2_15-2_10-1404_12-1/luoc-khao-ve-quan-he-thay-tro-trong-kinh-luat-phat-giao-chuc-phu.html

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

Những món chay ngon của mẹ và …

IMG_2263

Đu đủ để nhắc nhở mình luôn luôn biết đủ.

IMG_2254

Người giàu nhất là người biết đủ...

IMG_2258

Sa pô chê, mùa đông mà vẫn có trái để ăn, hái vô để gần chỗ ấm thì chín ăn rất ngọt…

IMG_2265

Mía đem về làm chạo chay… Không thôi thì róc và chẻ ra ăn chơi. Ăn món ngọt để tập nói lời ngọt ngào…

 

IMG_2214

Cây xoài năm nay trổ bông sớm, bông ra thì thật là nhiều…

IMG_2215

… nhưng đến hồi kết trái thì chẳng có bao nhiêu. Nhìn bông xoài mà nhớ lời Phật dạy, người mới phát tâm bồ đề nhiều như bông xoài, mà người giữ được tâm bồ đề kiên cố ít như xoài kết trái vậy. Nhớ như vậy để mình cố gắng giữ vững tâm bồ đề của mình.

IMG_2212

Lá chuối tuy te tua giữa cơn bão tố mà thân nó vẫn kiên cường đơm hoa…

IMG_2210

… kết trái. Bởi vậy mình đừng tưởng rằng ai cũng có cuộc sống bình yên, chỉ có mình mới gặp phong ba. Thật ra cõi ta bà là cõi kham nhẫn mà, ai lại không có chuyện khó khăn trong đời. Nhưng người kiên cường thì biết kiên nhẫn mạnh mẽ để vượt qua số phận... Chuối chín 1 lần nguyên 1 quày ăn không hết Mẹ ép đem phơi khô để làm bánh tét nhân chuối đó. DS có đem về được một mớ chuối khô, chắc phải nhờ người gói bánh tét…

 

IMG_2198

Cây cóc này được nhờ lắm

IMG_2221

Cóc chín, ngày nào cũng có cóc ăn

IMG_2262

Khoai mỡ tím, khoai này trồng dễ lắm, chỉ cần gọt lấy vỏ chôn xuống đất, thì nó ra dây leo như vầy. Qua mùa đông, đào xuống thì có củ.

IMG_2255

DS đem về Phila. được 3 củ khoai mở tím nấu canh thật ngon

IMG_2231 (2)

Củ chuối

IMG_2209

Đào củ chuối cũng vui lắm, có thật nhiều củ giống như búp sen

IMG_2203

Mùa đông những cây bông chuối tàn lụi giống như vầy

IMG_2206

Mình cắt cành lá khô và đào lấy củ

IMG_2223

Lấy vòi nước rửa sạch cát, xong kỳ cọ cho sạch rồi đem đi luộc, khi ăn mới lột vỏ, ăn giống như khoai từ nhưng ngọt và bùi lắm

 

IMG_2217 Sương sâm nguyên chất

IMG_2193 Mẹ xay lá sâm bằng máy, để lá sâm đầy máy, chế nước đầy nửa máy, bấm máy xay thời gian xay là trì xong 1 Chú Đại Bi

IMG_2194

Xong đổ vô lượt, vắt hết nước ra tô IMG_2195 Vừa vắt ra xong là đặc liền

IMG_2220 Cho hạt chia vào để cho nở, thêm đường nếu thích

 

IMG_2246

Món này mẹ của DS tự chế, nguyên liệu chính là đậu hũ, nấm và bột mì căn. DS thấy mẹ xắt lát nhiều loại nấm rồi xào cho thơm. Đậu hũ mẹ tự làm rồi bóp nhuyễn, trộn với nấm đã xào, nêm đường muối tiêu cho vừa ăn, xong rắt bột mì căn vào trộn đều. Mẹ cuộn lại thành cuốn rồi lăn qua bột mì căn để tạo thành 1 lớp da mỏng. Xong mẹ gói lá chuối đem đi hấp. Hấp xong để nguội rồi mẹ chiên áp chảo. Món này ăn với món gì cũng ngon đặc biệt là với bánh mì chay. Mẹ làm món gì cũng ngon!

IMG_2238

Đậu hũ và nấm xốt cà ăn ghiền luôn!

IMG_2335

Cà ri chay mẹ nấu rất tuyệt vời, ăn là bảo đảm mê!

IMG_2244

Bánh tét nhân chuối khô rất hấp dẫn…

Mến chia sẻ cùng các bạn gần xa, xem như là quà cho ba ngày Tết sắp đến. Chúc các bạn một năm mới an khang thịnh vượng.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Diệu Sương và gia đình.

Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

Hãy Làm Cho Cuộc Sống Trở Nên Có Ý Nghĩa

Tác giả: Lama Zopa Rinpoche, Người dịch: Minh Chánh

zopa1_724150091

Nếu có lòng từ bi với người khác, nếu sống vì lợi ích cho người khác, thì bạn tích tập phước đức vô hạn không thể lường được. Như trong chương đầu của tác phẩm Bồ Tát Sinh Đạo Yếu Tập (Bodhicharyavatara), khi diễn tả về những lợi ích của 18 tâm Bồ-đề , Bồ-tát Tịch Thiên (Shantideva), một vị luận sư lừng danh ở Ấn Độ, đã nói: “Tâm Bồ-đề là bộ thanh lọc cực mạnh của phiền não và ác nghiệp”. Có một vài khổ thơ mà trong đó ngài Tịch Thiên giải thích tâm Bồ-đề mạnh mẽ như thế nào về việc thanh trừng nghiệp ác.

Mục đích của cuộc sống.

Từ bi

Đối với chúng ta, những người đã từng quan tâm đến các pháp thoại của bậc  Thánh Thiện Dalai Lama dựa trên nền tảng thiền định của ngài Kamalashila trong mấy ngày qua, thì đây là một thời điểm vô cùng thuận lợi và quý báu nhất. Thật phi thường, chúng ta biết nghiệp để có thể nhìn thấy đức Phật từ bi ngay chính trong hình thái của nhân loại. Vì vậy, chúng ta không chỉ có thể truyền đạt biểu hiện sống động này của tâm giác ngộ mà có thể tiếp nhận những thông điệp trên một con đường không nghi ngờ, không có bất cứ vấn nạn nào, giải thoát khỏi bể khổ luân hồi và nguyên nhân của nó-nghiệp, hành động bị vọng tưởng chi phối, và chính những vọng tưởng ấy, những suy nghỉ mơ hồ loạn động liên tục hiện hữu không có sự khởi đầu. Thậm chí, nếu chúng ta không thể thực tập mỗi điều đơn giản mà bậc Thánh Thiện đã dạy trong mấy ngày qua, nhưng chỉ cần nghe các pháp thoại của ngài liên tục để lại những ấn tượng tích cực trong tâm của mình, thì sớm muộn gì, những ấn tượng ấy sẽ nhất định giải thoát chúng ta khỏi bể khổ luân hồi và nguyên nhân của nó, khiến chúng ta đạt đến giác ngộ hoàn toàn và có được hạnh phúc vô bờ của trạng thái tâm định tỉnh tuyệt đối. Những điều này được đăng tải trên chuyên mục “một tâm hồn rộng mở: thực tập từ bi trong đời sống hằng ngày”. Pháp thoại khác trên nguyên văn của ngài Dalai Lama thuyết giảng có thể được tìm thấy trong “các giai đoạn của thiền”. Những pháp thoại của đức Dalai Lama đều nói về lòng từ bi. Ví dụ, mục đích của cuộc sống chúng ta là gì? Tại sao chúng ta phải sống? Tại sao chúng ta phải luôn nổ lực để tồn tại trong từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây?Tại sao chúng ta phải tiêu phí quá nhiều tiền bạc để chăm sóc cơ thể này, kiểm tra sức khỏe mỗi năm để biết nó bị bệnh hay không, và nếu có thì phải chửa trị rất là tốn kém?Tại sao chúng ta phải xài quá nhiều tiền cho thực phẩm, áo quần và nhà cửa-rất nhiều thứ chúng ta cần để tồn tại và trở nên khỏe mạnh? Tại sao chúng ta bỏ ra hàng tỷ đồng chi việc luyện tập để giữ cơ thể mình mạnh khỏe? Tất cả những chi phí và hoạt động này chỉ có ý nghĩa khi chúng ta có lòng từ bi với chính mình. Lòng từ bi đối với người khác tạo nên mọi thứ chúng ta thể hiện-tiêu tiền, nghiên cứu, làm việc, rèn luyện, chăm sóc sức khỏe-có ý nghĩa.

Mặt khác, nếu thiếu lòng từ bi, thì cuộc sống chúng ta trở nên trống rỗng. Tất cả mọi chi tiêu, tất cả những nổ lực, tất cả hằng giờ làm việc đều hoàn toàn không có ý nghĩa gì và chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn trong cuộc sống hằng ngày. Nếu không có lòng từ bi với ý tưởng làm lợi ích cho người khác, thì con tim chúng ta chỉ chứa toàn thất vọng và rất khó để tìm thấy sự thỏa mãn trong bất cứ điều gì chúng ta thực hiện. Mặc dù sở hữu nhiều của cải như thế nào đi nữa, nhưng nếu trái tim của chúng ta thiếu hẳn từ bi, thì mọi thứ của cải ấy luôn luôn trở nên trống rổng, không có giá trị.

Nếu nhìn nhận cẩn thận, bạn sẽ thấy rằng bất cứ điều gì mình có hoặc nổ lực đạt được, nhưng không có từ bi hiện hữu trong tâm, thì bạn không bao giờ cảm thấy hoàn toàn đúng đắn. Nếu tâm mình không có an lạc, và sâu thẳm bên trong, thì bạn sẽ luôn luôn cảm thấy thiếu vắng một điều gì đó.

Phương pháp tốt nhất làm cho cuộc sống của bạn trở nên có ý nghĩa là đem lại lợi ích cho người khác bằng cách phải có lòng từ bi với họ. Đó cũng là phương pháp tốt nhất để tìm thấy an lạc, hạnh phúc, mãn nguyện và hài lòng trong cuộc sống của chính bạn. Tuy nhiên, từ bi đối với người khác không không chỉ đem đến an lạc, hạnh phúc cho bạn ngay bây giờ trong đời sống hiện tại này. Sống vì người khác sẽ cho bạn một tương lai có thể tốt đẹp nhất. Ngay cả trong tình huống cấp thiết nhất, chấm dứt đời sống, khi ý thức lìa khỏi thân xác, thì từ bi đem lại cho bạn cái chết hạnh phúc, an vui và thanh thản. Hơn nữa, cái chết an vui, hạnh phúc của bạn cũng tạo nên hạnh phúc cho người khác. Bạn bè và gia đình cũng được an vui nhờ bạn. Bạn trở thành một người truyền cảm hứng, một biểu tượng của hy vọng và can đảm. Mọi người đều thấy rằng cái chết của họ cũng có thể trở nên hạnh phúc.

Thậm chí nếu bạn hiểu rõ trí tuệ trực tiếp nhận thức được bản chất của hiện tượng-bản tánh tuyệt đối của “ngã” (cái tôi) và tâm-nếu không có lòng từ bi, không có một trái tim tuyệt hảo, thì hầu hết những gì bạn đạt được chỉ là Niết bàn của tiểu thừa nhỏ bé, một trạng thái hạnh phúc cho riêng mình chứ không thể đạt đến giác ngộ hoàn toàn. Bạn vẫn còn có ảo giác của quan điểm nhị nguyên phân biệt. Vẫn có những vết tích tiêu cực phảng phất trong dòng chảy của tâm mình ngăn cản bạn từ cái nhìn trực diện về tất cả hiện hữu, tánh không của các pháp-tất cả sự thực  tuyệt đối đương hiện.

Sức mạnh thanh khiết của lòng từ bi

Nếu có lòng từ bi với người khác, nếu sống vì lợi ích cho người khác, thì bạn tích tập phước đức vô hạn không thể lường được. Như trong chương đầu của tác phẩm Bồ Tát Sinh Đạo Yếu Tập (Bodhicharyavatara), khi diễn tả về những lợi ích của 18 tâm Bồ-đề[1], Bồ-tát Tịch Thiên (Shantideva), một vị luận sư lừng danh ở Ấn Độ, đã nói: “Tâm Bồ-đề là bộ thanh lọc cực mạnh của phiền não và ác nghiệp”. Có một vài khổ thơ mà trong đó ngài Tịch Thiên giải thích tâm Bồ-đề mạnh mẽ như thế nào về việc thanh trừng nghiệp ác.

Ngài tiếp tục lý giải: “giống như nương tựa vào một người rất có uy thế khi bạn muốn được che chở khỏi mối nguy hiểm, nương tựa vào tâm Bồ-đề, thực tập tâm Bồ-đề: một trái tim lương thiện, trong chỉ một phút, thậm chí một giây, sẽ tịnh hóa rất mạnh mẽ và vô tận đối với nghiệp ác. Vậy tại sao không giao phó chúng cho tâm Bồ-đề?”.

Nếu có lòng từ bi trong cuộc sống hằng ngày của mình, thì bạn có thể tích tập phước đức vô hạn và tịnh hóa được ác nghiệp trong một thời gian rất ngắn. Nghiệp ác ở nhiều đời nhiều kiếp được tịnh hóa. Điều đó giúp bạn nhận thức rõ “tánh không”[2]. Thực hiện thế nào? Để nhận thức được “tánh không”, bạn cần phải có nhiều phước đức và sự tịnh hóa cao thượng. Ví dụ, để thực hiện dự án một triệu đô la, thì bạn phải cần đến một triệu đô la. Tương tự, để nhận thức được “tánh không”, bạn cần có một sự tích lũy phước đức rộng lớn. Bằng cách thể hiện lòng từ bi, đem lại lợi ích cho người khác, thì bạn tích tập được phước đức sâu dày, và nhân đó mà nhận thức về “tánh không” xuất hiện.

Longdrol Lama Rinpoche, một luận sư Du-già[3] nổi tiếng, đến từ Tu Viện Sera-je[4], luôn luôn cho thấy rằng Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara[5], hiện thân của tất cả các công  hạnh thanh khiết của đức Phật, nói rằng Ngài Tara khuyên bảo ông ta thực hành phương pháp thiền cho và nhận (tong-len). Phương pháp thực tập này đòi hỏi bạn phải chấp nhận lấy đau khổ của chúng  hữu tình khác và nguyên nhân khổ đau hiện hữu trong chính mình; loại bỏ bản ngã; cống hiến thân thể, hạnh phúc, phước đức của mình và những thứ khác cho hữu tình chúng sinh; ban tặng mọi thứ cho người khác; khiến họ nhận được bất cứ điều gì họ cần; như là một kết quả mà họ thể hiện trên phương tiện, trí tuệ và trở nên giác ngộ. Đức Tara bảo ngài Longdrol Lama Rinpoche: “nếu bạn thực tập phương pháp thiền cho và nhận (tong-len), thì nhận thức về tánh không nhờ đó sẽ xuất hiện”.

Tuy nhiên, điều đó không phải là tất cả. Với lòng từ bi như vậy, bạn không không chỉ nhận thức rõ tánh không mà còn đạt được giác ngộ tuyệt đỉnh, chấm dứt tất cả mọi tâm bất thiện và các phiền não, đồng thời đạt đến những hiểu biết hoàn hảo.

Trách nhiệm toàn cầu

Nếu không có lòng từ bi, thì tất cả những gì bạn có chỉ là tâm tự cao tự đại. Do đó, sân hận, đố kỵ, tham lam và những ý nghỉ cảm xúc khác như vậy sanh khởi. Những ý tưởng tiêu cực này, hoặc trực tiếp hay gián tiếp, khiến bạn gây tổn hại đến những hữu tình khác, từ đời này sang đời khác. Bạn, một con người có thái độ tiêu cực, gây tổn hại cho tất cả hữu tình chúng sanh. Điều đó rất nguy hiểm. Bằng cách so sánh, ngay cả khi tất cả hữu tình chúng sanh trở nên giận dữ, gây tổn hại hoặc thậm chí giết bạn, thì cũng chẳng có gì bận tâm. Bạn chỉ là một con người, và tầm quan trọng của bạn chẳng là gì hết. Bạn chỉ là một hữu tình chúng sanh. Vì vậy, đây là yếu tố cần thiết và vô cùng quan trọng khi bạn, một con người, chuyển hóa thái độ tiêu cực và biến đổi tâm mình thành lòng từ bi, tâm Bồ-đề ngay bây giờ trong kiếp sống này. Vì sao? Bởi vì đời này ban tặng cho bạn mọi cơ hội để thực hiện như vậy. Từ vô thủy tái sinh đến nay, bạn đã không chuyển đổi trạng thái tâm “ngã ái”— cội nguồn của các vấn đề và khổ đau của mình mà chính bạn nếm trãi, nguồn gốc cho nhiều vấn đề và gây tổn hại đến vô số chúng hữu tình khác— thành động thái của yêu thương và mang lại lợi ích cho người khác— cội nguồn của tất cả an lạc hạnh phúc cho chính bạn và vô số hữu tình chúng sanh khác. Bạn chưa bao giờ chuyển hóa bản ngã, tâm tự cao, tư tưởng tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình thành quan điểm yêu thương và bi mẫn của tâm Bồ-đề. Tuy nhiên, trong đời này, bạn có thể thực hiện điều đó. Từ khía cạnh riêng của chính mình, bạn đã lãnh thọ được thân người quý báu chứ không tái sanh vào tám cảnh giới bất thiện[6] và sinh vào mười cõi thiện[7]. Hơn nữa, bạn không chỉ đã từng diện kiến một thiện hữu với đức hạnh thanh cao cho bạn thấy rõ đạo hạnh—nguyên nhân chánh trực của hạnh phúc cho đời sống tương lai và con đường đúng đắn dẫn tới giải thoát, tự tại thoát khỏi sanh tử luân hồi vĩnh viễn—mà còn gặp gở một người bạn với đức hạnh khiêm từ trong giáo pháp Đại thừa, người có khả năng biểu lộ sự giác ngộ hoàn hảo và chính trực với trạng thái tâm tuyệt đối hạnh phúc. Bạn không chỉ gặp được Phật pháp mà còn tiếp cận với giáo lý đại thừa. Thậm chí nếu chưa từng gặp được bậc minh sư như vậy, bạn cũng có đủ mọi cơ hội để thực hiện. Đặc biệt ngay bây giờ, bạn có cơ hội để tiếp xúc với người bạn đầy đức hạnh, bậc Thánh Thiện Dalai Lama, người đã được đức Thích Ca Mâu Ni thọ ký trở thành đức Phật của từ bi qua những trích dẫn mang đậm tính lịch sử. Điều này giống như một giấc mơ trở thành hiện thực; rất khó mà diễn tả.

Nếu bạn, một sinh vật, phát triển lòng từ bi trong tâm mình, thì không hề gây tổn hại cho vô số chúng hữu tình khác. Bạn chấm dứt việc gây tang thương cho người khác. Sự vắng mặt của tổn hại tức lòng từ bi của bạn mang an vui hạnh phúc đến cho vô số chúng hữu tình khác. Đó là những gì mà họ tiếp nhận từ bạn.

Không chỉ có vậy. Nếu bạn không gây tổn hại cho họ, thì những người khác cũng nhận được lợi ích. Vì lòng từ bi, bạn sẽ giúp họ. Như vậy, vô số chúng hữu tình khác tiếp nhận nhiều an vui hạnh phúc từ bạn. Tất cả điều đó đều nằm trong tầm tay của bạn, bởi nó hoàn toàn có mặt trên những gì mà tâm của bạn thể hiện—hoặc sanh khởi lòng từ bi với người khác hoặc không sanh khởi. Vô số chúng hữu tình tiếp nhận sự tổn hại hoặc an vui hạnh phúc, tất cả đều phụ thụôc vào những gì bạn làm với tâm của chính mình. Đó là tất cả tùy vào bạn. Vì vậy, mỗi người chúng ta ở đây phải hoàn toàn có trách nhiệm về an vui hạnh phúc của mọi chúng hữu tình. Mỗi người trong chúng ta phải có trách nhiệm toàn cầu.

Bởi thế, 24 giờ một ngày, từ sáng đến tối, nếu có thể, thì bạn nên dồn mọi nổ lực vào việc phát huy tư tưởng về trách nhiệm toàn cầu: “tôi phải có trách nhiệm cho hòa bình, an vui hạnh phúc của vô số chúng hữu tình khác; mục đích cuộc sống của tôi là mang lại hạnh phúc cho chúng hữu tình khác”. Mỗi sớm mai thức dậy với thái độ này; mặc quần áo với thái độ này, cái cảm giác về trách nhiệm: “tôi phải có trách nhiệm về hạnh phúc của tất cả chúng hữu tình; an vui hạnh phúc của họ đặt hết vào tôi”. Phải biết rằng điều thực sự  rất có ý nghĩa trong cuộc sống của bạn. Mặc quần áo với thái độ này, đi tắm với thái độ này, ăn sáng với thái độ này, đi làm với thái độ này.

Làm việc với tâm Bô-đề

Hơn nữa, suốt ngày, trong khi đang làm việc, bạn nên nhìn kỉ thái độ của mình. Không phải chỉ đơn thuần rời khỏi nhà để đi làm vào buổi sáng với thái độ này. Tại nơi làm việc, cũng phải thường xuyên nhìn kỉ động cơ thúc đẩy của bạn và luôn chuyển hóa hóa thái độ của mình bằng cách này. Hãy sanh khởi thiện tâm; hãy cảm thấy mình luôn có trách nhiệm về hạnh phúc cho tất cả chúng sanh và điều đó tùy thuộc bạn tạo ra. Hãy duy trì một thái độ kiên định về lòng từ bi và tâm Bồ-đề.

Ví dụ, động lực thúc đẩy của bạn liên tục: “tôi đang làm công việc này cho ai?Tôi đang thực hiện cho chính mình hay cho người khác?”. Nếu trong sâu thẳm tâm trí không thường xuyên có cảm giác mình đang làm việc cho người khác, nếu thái độ của mình đã thay đổi, nếu thấy rằng mình đang làm việc vì hạnh phúc cho riêng mình, thì bạn hãy loại bỏ thái độ này và thay nó bằng thái độ mình đang làm việc vì lợi ích cho người khác với lòng từ bi, với thiện tâm, với tâm Bồ-đề. Hãy nổ lực nhiều hơn nếu bạn có thể trong việc tạo ra và duy trì cảm giác rằng mình đang làm việc vì lợi ích cho người khác nữa chứ không phải chỉ riêng cho chính bản thân mình.

Nếu bạn làm việc vì tiền thì không có nghĩa bạn đang đem lại lợi ích cho người khác. Nếu dùng số tiền mà mình kiếm được để giúp đở người khác—chẳng hạn giúp người tật bệnh hoặc người nghèo khổ nhằm truyền bá Phật pháp, hay giúp chúng sanh trong bất cứ trường hợp nào—thì điều đó chắc chắn bạn đem lại lợi ích cho người khác. Nếu làm việc nhằm tiết kiệm tiền để có thể ẩn cư hoặc thực tập hay nghiên cứu giáo pháp vì lợi ích cho những chúng hữu tình khác, thì đó là thái độ đúng đắn, là quan điểm mà bạn nên có. Nếu làm việc và nghiên cứu để tồn tại, nhưng cuộc sống của mình luôn vì lợi ích cho người khác; nếu chăn sóc bản thân mình để có thể phục vụ tất cả chúng sanh khác; nếu cảm nhận: “tôi là đày tớ của tất cả chúng sanh, phục vụ để họ thoát khỏi khổ đau và mang lại hạnh phúc cho họ”, thì bạn đang thực hiện một công việc chính đáng, và  công việc mà bạn làm là vì lợi ích cho người khác.

Ngủ với tâm Bồ-đề

Khi đi ngủ, bạn cũng nên ngủ với cảm giác có trách nhiệm về hạnh phúc của tất cả chúng sanh: “để giải thoát vô số chúng sanh khác lìa khỏi khổ đau và dẫn dắt họ đạt được hạnh phúc cao thượng của giác ngộ hoàn toàn, trước hết tôi phải chứng đắc giác ngộ. Để làm được điều này, tôi cần phải thực tập giáo pháp. Để thực tập giáo pháp có hiệu quả, tôi cần phải sống lâu và có sức khỏe tốt. Sự sống lâu và sức khỏe tốt phụ thuộc vào giấc ngủ. Vì thế, bây giờ, tôi phải đi ngủ”. Có hai điều trong cuộc sống mà chúng ta mất nhiều thời gian nhất để thực hiện là làm việc và ngủ. Do đó chúng ta cần một động lực thúc đẩy tốt cho mỗi điều, nếu không, sẽ lãng phí hơn nữa đời mình. Khi sự thực tập tiệm giáo (từ từ từng bước một) được chú ý đến, chúng ta có thể tiêu tốn hầu hết nữa cuộc đời mình cho việc ngủ nghỉ. Bởi thế, rất quan trọng  để biết rõ không chỉ bằng cách nào nhằm khiến cho giấc ngủ có phước đức, cội nguồn của hạnh phúc, và không có đức hạnh, nguyên nhân của khổ đau, mà còn biết làm thế nào đó khiến nó sanh khởi hạnh phúc cho vô số chúng sanh hữu tình khác.

Nếu ngủ với lòng từ bi, với tâm Bồ-đề, với tư tưởng đem lại lợi ích cho người khác, thì giấc ngủ của bạn trở nên cội nguồn của giác ngộ, cội nguồn hạnh phúc của vô số chúng hữu tình khác. Điều này có được là  do bất cứ điều gì bạn thực hiện với tâm Bồ-đề chỉ đem lại lợi ích cho người khác, ngay cả trước khi bạn trở nên giác ngộ. Khi thâm nhập vào giáo lý đại thừa bằng cách phát triển tâm Bồ-đề, thì bạn bắt đầu ban phát lợi ích sâu xa cho các chúng sanh khác, và sau khi hoàn tất giáo pháp, chứng đạt giác ngộ, bạn khiến vô số chúng sanh sống trong sự giác ngộ hoàn toàn.

Do đó, chắc chắn rằng bạn nổ lực rất nhiều trong việc tạo ra không chỉ động lực thúc đẩy đức hạnh mà còn chính thái độ về giáo pháp tốt nhất của lòng từ bi và tâm Bồ-đề, không chỉ khi đi làm việc mà còn ngay cả khi bạn đi ngủ. Bằng cách đó, giấc ngủ của bạn trở thành pháp tối thượng, bởi vì không bị khái niệm ngã ái làm hoen ố. Do vậy, điều đó trở thành kinh “phương pháp ngủ”, nhưng cũng có kết hợp thiền định bí mật trong việc ngủ và thức của mình khiến bạn luôn tỉnh giác. Nếu đã chấp nhận các lý giải dựa trên cấp độ thiền định thấp hơn hoặc cấp độ thiền định cao nhất, thì bạn nên thực tập bất cứ phương thức nào mà mình nhớ rõ.

Quy y tâm Bồ-đề

Cuộc sống của chúng ta quá bận rộn. Chúng ta lo lắng nhiều về gia đình và các trách nhiệm bổn phận khác. Khi cuộc sống trở nên quá bận bụi, thì không có nơi nào ẩn náu tốt hơn là thiện tâm của bạn. Thiện tâm của mình là nơi quan trọng trọng nhất để bạn quay về nương tựa. Mặc dù muốn thực tập lâu dài, ngồi thiền, cầu nguyện hoặc sống ẩn dật, nhưng cuộc sống của bạn luôn luôn bận rộn đến nổi bạn không có thời gian. Bạn có quá nhiều bổn phận trách nhiệm khác, nên không thể thực hiện mọi thứ mà mình yêu thích. Nếu rơi vào trường hợp này, cách duy nhất, bạn nên nương tựa vào thiện tâm của mình, lòng từ bi, tâm Bồ-đề và tư tưởng làm lợi ích cho người khác. Nếu nương tựa vào đó, nếu có thể thực tập như vậy, mặc dù bận rộn thế nào—thậm chí không có thời gian ngồi thiền, cầu nguyện hay thực tập sơ bộ v.v, thì bạn cũng không có gì hối tiếc về những cơ hội đã vụt bay ngay hiện tại hoặc tương lai. Trong đời này và trong tất cả đời sống ở tương lai, bạn sẽ luôn luôn đi từ hạnh phúc và hạnh phúc đến giác ngộ.

Có rất nhiều sự thực tập mà bạn có thể thực hiện—những gì quan trọng nhất? điều gì quan trọng nhất để thực tập trong cuộc sống? Tôi sẽ nói rằng đó là thiện tâm, là tư tưởng cao thượng của tình thương, lòng từ bi, tâm Bồ-đề và quan điểm làm lợi ích cho người khác của chính bạn. Điều đó là thiền định tốt nhất, là pháp tốt nhất để thực tập. Như  ngài Tịch Thiên cũng đã nói khi trình bày về những lợi ích của tâm Bồ-đề trong tác phẩm “nhập Bồ-tát hạnh”, “sau khi suy nghiệm nhiều kiếp, đức Phật đã khám phá ra rằng tâm Bồ-đề là điều có lợi ích nhất cho tất cả chúng sanh”. Đoạn trích này giải thích rõ những gì tốt đẹp nhất cho bạn. Điều đó có nghĩa tâm Bồ-đề là pháp hành tốt nhất của bạn. Cách thức tốt nhất để chăm sóc chính bản thân bạn là gì? Điều tốt nhất cho hạnh phúc chính bạn là gì? Đó là tâm Bồ-đề. Sự khám phá của đức Phật áp dụng công bằng cho bạn. Có quá nhiều vấn đề trong cuộc sống—ung thư, HIV, những vấn đề quan hệ, nợ nần, không có đủ tiền, vấn đề công việc như người khác ghanh tị với bạn, hoặc gây trở ngại cong việc của bạn hoặc không kiếm được việc làm. Thực sự có quá nhiều vấn đề nan giải. Tuy nhiên, một câu trả lời có thể xoa dịu mọi thứ, một giải pháp cho tất cả vấn đề của bạn trong cuộc sống, một điều có thể thực hiện tất cả các ước mơ của bạn, đó là tâm Bồ-đề, tâm trí, thiện tâm.

Nếu có một trái tim lương thiện, thì bạn không gây tổn hại đến người khác; bạn luôn giúp người khác về những vấn đề của họ, bất cứ điều gì họ mắc phải. Điều này khiến bạn có một cuộc sống bền lâu và sức khỏe tốt. Trong tiệm giáo (từ từ từng bước một) có nói đến tám phảm chất  đặc thù của một đời sống tái sanh tốt đẹp. Một trong những phẩm chất đó là cuộc sống dài lâu với cội nguồn được giải thích là giúp đở hay cứu vớt sự sống của chúng sanh khác như động vật hoặc con người; ví dụ cho họ thức ăn, thuốc men, quần áo hoặc giúp họ bằng nhiều cách khác nhau.

Vì vậy, trong đời sống hằng ngày của mình, bạn hãy nổ lực với một trái tim lương thiện để mang lại lợi ích cho người khác cáng nhiều càng tốt. Nếu có thể thực hiện điều này, cho dù đang phục vụ người khác một cách tuyệt vời hay bình thường, thì bạn cũng liên tục tạo ra nguyên nhân của thành công cho chính mình—sự giàu có, sống lâu, sức khỏe tốt và mọi thứ. Những hoạt động của bạn rất tương xứng với các kết quả như thế. Do vậy, một trái tim lương thiện sẽ hoàn thành tất cả những ước muốn của bạn cho bất cứ hạnh phúc nào, bao gồm hạnh phúc tuyệt đối và cao thương nhất của sự hoàn toàn giác ngộ. Các hoạt động được thực hiện với một trái tim lương thiện chưa bao giờ mang dáng dấp của phi đức hạnh, và chỉ có đức hạnh thuần túy. Các hoạt động được thực hiện với một trái tim lương thiện chỉ mang lại lợi ích và chưa bao giờ gây tổn hại cho người khác. Vì thế, khi hoạt động với một trái tim lương thiện, bạn không bao giờ tạo ra nguyên nhân của bệnh tật, mà chỉ có sức khỏe. Ước muốn của bạn làm lợi ích cho người khác là một tâm hồn lành mạnh. Tâm hồn lành mạnh đó khiến cho cơ thể của bạn trở nên mạnh khỏe.

Vượt qua bệnh tật với tâm Bồ-đề.

Ngày nay, có nhiều bác sĩ, nhà tâm lý học và khoa học ở phương Tây rất giỏi và thông minh đã suy nghiệm và chứng minh qua trí tuệ của họ rằng bệnh tật như ung thư xuất phát từ thái độ tiêu cực của mỗi cá nhân. Ung thư có nguồn gốc từ tâm trí tiêu cực. Do đó, phương pháp để chửa khỏi bệnh ung thư là phải có một thái độ tích cực, một tinh thần trong sáng.

Ví dụ, ở Singapore, có một phật tử người Trung Quốc bị mắc bệnh HIV. Anh ta đã báo tin cho thầy của mình, một vị Lạt ma rất có đức độ tên là Rato Rinpoche sống ở Dharamsala[8]. Rinpoche đã gởi những hướng dẫn đến phật tử này về cách thực tập tâm Bồ-đề đặc biệt mà tôi đã quan tâm trước đó, phương thức thiền cho và nhận, như là một biện pháp trị liệu, một cách thức cho anh ta thực tập. Do vậy, anh đã ta thực tập 4 ngày, sau đó đi đến bệnh viện để kiểm tra lại và các bác sĩ bảo với anh ta rằng “bạn không còn mắc bệnh HIV nữa”. Sau bốn ngày, họ không tìm thấy dấu vết của HIV. Khi nghe điều này, tôi nghỉ anh ta phải mấy nhiều giờ mỗi ngày để thực tập phương pháp thiền cho và nhận, vì thế tôi hởi anh ta, “bạn thực tập bao lâu?” “Bốn phút mỗi ngày”, anh ta nói!

Anh ta chỉ thực tập 4 phút một ngày, nhưng suốt thời gian đó lòng từ bi của anh ta có sức mạnh phi thường. Không có khoảng trống cho căn bệnh HIV xuất hiện trong tâm anh ta. Mối quan tâm duy nhất của anh ta là cống hiến thương tưởng đến người khác, những người mắc bệnh HIV. Suốt trong 4 phút đó mỗi ngày, anh ta cảm thấy thương tưởng cao độ đến nổi những giọt nước mắt rơi đầm đìa trên má. Anh ta cảm thấy đó là một cực hình đối với các chúng hữu tình phải chịu đựng khổ sở khi mắc bệnh HIV. Tại sao các bác sĩ không tìm thấy dấu vết của căn bệnh HIV sau khi anh ta đã thực tập chỉ 4 ngày? Bởi vì mặc dù anh ta thực tập thiền chỉ vài phút một ngày, nhưng thiền định mà anh ta thực tập đã có một sức mạnh rất lớn như quả bom nguyên tử. Lòng từ bi của anh ta đối với người khác mạnh mẽ đến nổi đã tịnh hóa được vô số ác nghiệp hiện khởi trong tâm hồn mình. Bạn có nhớ đoạn trích từ ngài Tịch Thiên mà tôi đã đề cập đến trước đây, làm thế nào tâm Bồ-đề tịnh hóa được vô số nghiệp ác nặng nề? Đó là những gì xảy ra ở đây. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh HIV là những dấu tích tiêu cực tồn động liên tục trong tâm do ác nghiệp ở quá khứ gây nên. Lòng từ bi của phật tử này mạnh mẽ đến nổi đã vô hiệu hóa được nguồn gốc nghiệp bệnh tật của anh ta.

Tương tự, thiền định có thể chửa khỏi bệnh ung thư. Cùng một lý di được áp dụng. Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, năm hoặc sáu người bị bệnh ung thư giai đoạn chuối nhưng hoàn toàn bình phục nhờ trì tụng thần chú của các đức Phật khác mà họ liên tưởng đến. Các bác sĩ bảo rằng họ sẽ phải chết chỉ trong vòng hai ba tháng nữa, nhưng bằng cách tịnh hóa nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh ung thư trong tâm mình, họ hoàn toàn vượt qua bệnh tật. Việc trì tụng thần chú cũng có thể chửa khỏi những căn bệnh khác, chẳng hạn như bệnh tim.

Tôi có nghe rằng một người ở Tây Ban Nha bị mắc bệnh tim rất nặng. Tim anh ta bị hở rất rộng và các bắc sĩ bảo anh ta chỉ sống thêm được một thời gian rất ngắn. Một nhà sư tiến sĩ tại trung tâm Long Thọ ở Barcelona đã khuyên anh ta trì tụng thần chú Tayatha om muni muni maha munaye soha của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, 300000 lần. Vị sư đưa cho anh ta một con số rất lớn để thực tập! Dù sao, anh ta cũng theo lời khuyên bảo của vị sư ấy, và tim anh ta dần dần thu hẹp kích cở cho đến khi nó trở lại bình thường. Tôi cũng được một nhạc sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha cho biết có một người khác đã chửa trị khỏi căn bệnh HIV nhờ vào thiền định, nhưng tôi không biết các chi tiết về trường hợp đó. Tuy nhiên, những gì tôi cố gắng nhấn mạnh ở đây chính là tạo ra một trái tim lương thiện, cách tốt nhất để chăm sóc sức khỏe của bạn. Ngày này, có rất nhiều căn bệnh lạ xuất hiện, nhiều mối đe dọa mới gây nguy hiểm cho cuộc sống. Cách tốt nhất để tránh xa những căn bệnh ấy là không tạo ra nguyen nhân của chúng. Như vậy, một trái tim lương thiện là sự bảo vệ tốt nhất thoát khỏi bệnh tật. Và bạn nên gác lại bất cứ căn bệnh nào, đồng thời  phát triển một trái tim lương thiện cũng là cách tốt nhất để vượt qua nó.

Ăn với tâm Bồ-đề

Trước khi ăn bửa sáng, bửa trưa hay bửa tối, bạn nên nhớ cảm nhận rằng “tôi có trách nhiệm về hạnh phúc của tất cả chúng sanh; đây là mục đích cuộc sống của tôi. Để hoàn thành mục đích này, tôi cần phải có sức khỏe và sống lâu .Do đó, chắc chắn tôi sẽ ăn thực phẩm này”. Bằng cách ấy, mỗi khi bạn ăn uống, nó trở nên phụng sự cho tất cả chúng sanh. Khi bạn ăn uống với tâm Bồ-đề, nó trở nên cội nguồn hạnh phúc cho tất cả chúng sanh. Lúc đầu, khi sanh khởi tâm Bồ-đề, bạn tích tập được cả một khung trời của hạnh phúc, đức hạnh, thiện nghiệp và sau đó, trong mỗi miếng ăn miếng uống mà bạn dùng cũng trở thành nguyên nhân giác ngộ của bạn và cội nguồn hạnh phúc cho tất cả chúng sanh.

Nếu ăn với ý nghỉ làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, thì thức ăn trở nên nhiều hơn trong đĩa của mình, lớn hơn số thức ăn bạn dự định ăn, và bạn tích tập được nhiều thiện nghiệp hơn. Với mỗi miếng ăn, bạn tích tập cả một khung trời của phước đức. Nếu ăn trong nhiều giờ hơn, cuộc sống của bạn trở nên phong phú và có ý nghĩa hơn.

Tất cả những gì bạn làm đều là phật pháp

Tương tự, như tôi đã đề cập ở trên, nếu làm việc với tâm Bồ-đề, bạn sẽ có nhiều giờ để làm việc hơn, đồng thời tạo ra nhiều nguyên nhân của giải thoát và hạnh phúc hơn. Nhân đó, công việc của bạn trở thành phương tiện để đạt được hạnh trong đời sống tương lai và giải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Bạn tìm thấy an vui hạnh phúc ngay trong hiện tại, quan trọng hơn, bạn có thể xây dựng một tương lai tốt đẹp nhất cho chinh mình và người khác. Bằng cách này, mọi điều bạn thực hiện đều là Phật pháp, cuộc sống hằng ngày của bạn và Phật pháp là một. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày, cuộc sống của bạn được tương hợp với thiền định tốt nhất và Phật pháp.

Ngay cả khi nếu học thuộc tất cả 84000 pháp môn của đức Phật, tất cả kinh điển và mật giáo, hàng trăm tác phẩm Phật pháp và có thể giải thích hoặc giảng dạy tất cả, nhưng trong cuộc sống hằng ngày nếu không bảo vệ được tâm mình  thoát khỏi ảo tưởng, rối loạn, mê mờ, thì bạn cũng không phải là người thực tập Phật pháp. Vì sao? Bởi vì Phật pháp là phương thức điều trị loạn tưởng, giống như thuốc men dùng để trị bệnh. Nếu những hoạt động của mình trở thành Phật pháp, thì chúng phải là thuốc giải độc cho căn bệnh loạn tưởng của bạn. Do đó, nếu không bảo vệ tâm mình thoát khỏi những loạn tưởng;  nếu cứ tiếp tục để nó bị loạn tưởng điều khiển, bị loạn tưởng áp đặt; nếu trở thành nô lệ của những loạn tưởng, kẻ thù đích thực của chính mình—vô minh, sân hận, chấp trước v.v—; nếu không thực tập để điều chỉnh loạn tưởng, bảo vệ tâm mình thoát khỏi những loạn tưởng, giải thoát tâm mình khỏi những loạn tưởng, thì không có điều gì bạn làm là Phật pháp cả, và bạn chưa bao giờ tạo ra nguyên nhân của hạnh phúc.

Mặt khác, bất cứ khi nào trong cuộc sống hằng ngày của mình có mối nguy hiểm của loạn tưởng khởi lên và bạn bảo vệ mình thoát khỏi nó, thì tại thời điểm đó bạn đang thực tập Phật pháp. Bất cứ khi nào bạn giải thoát tâm mình khỏi loạn tưởng, ngăn chặn không cho dù một chút loạn tưởng sanh khởi và điều khiển hoặc bám lấy mình, thì thời điểm đó bạn đang thực sự thực tập Phật pháp. Vì vậy, nếu có thể ứng dụng bất cứ phương thức giáo dục nào mà mình đã hấp thụ—Phật pháp hay bất cứ cách khác—để bảo vệ chính mình, giữ tâm mình thoát khỏi loạn tưởng, cũng như đem lại lợi ích cho người khác, mang lại an vui hạnh phúc chân thật cho người khác, thì tất cả điều đó không chỉ bạn đang tu học Phật pháp mà còn trở nên vô cùng có ý nghĩa. Tất cả những năm tháng bạn nổ lực giáo dục chính mình sẽ có sự đền đáp đích đáng.

Bốn cách mang lại lợi ích cho người khác

Như tôi đã đề cập trước đây, việc đem lại lợi ích cho người khác, khiến thân khẩu, ý của mình làm lợi ích cho người khác là mục đích của cuộc sống. Tuy nhiên, có những cấp độ khác nhau về lợi ích mà bạn ban tặng. Thứ nhất là mang lại hạnh phúc cho người khác trong cuộc sống này. Quan trọng hơn đó là khiến họ có được hạnh phúc trong nhiều kiếp sống ở tương lai. Điều quan trọng hơn nữa là hướng dẫn tất cả chúng sanh khác hoàn thành tự do giải thoát vĩnh viễn khỏi  vòng xoáy của khổ đau nội tại, vòng xoáy của luân hồi sanh tử và ba loại khổ não. Ba loại khổ não này chính là khổ đau vì nhức nhối, khổ đau vì vô thường, khổ đau vì khoái lạc tạm thời trong luân hồi; và khổ đau đó là căn bản của hai thứ khổ khác: khổ khổ, năm uẩn khổ nằm dưới sự kiểm soát của nghiệp và vô minh, đồng thời hạt giống nhiễm ô của các tư tưởng loạn động hộp chứa đựng khổ đau trong đời này và làm nền tảng khổ đau cho các kiếp sống ở tương lai. Lợi ích mang lại giải thoát hoàn toàn cho người khác là quan trọng hơn điều lợi ích thứ nhất. Tuy nhiên, lợi ích quan trọng và cao cả nhất mà bạn có thể hiến tặng cho tất cả chúng sanh là khiến họ đạt được giác ngộ hoàn toàn, đạt đến tất cả đặc tính của niết bàn vĩnh cữu và nhận thức chánh chơn.

Để thực hiện công việc này hoàn toàn vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, với không vướng phải sai lầm, trước hết bạn cần đạt được giác ngộ hoàn toàn. Sự giác ngộ không xuất hiện nếu không có căn nguyên. Bạn cần phải thực hiện ba cấp độ của con đường giác ngộ—tiệm giáo của chúng sanh có năng lực tốt nhất, tùy thuộc vào việc thực hành tiệm giáo này đi cùng với chúng sanh có khả năng trung bình, tùy thuộc vào việc thực hành sơ khởi tiệm giáo đi cùng với chúng sanh có năng lực thấp kém nhất. Sự thành công trong tất cả điều này—từ  khởi đầu của tiệm giáo đến giác ngộ—hoàn toàn tùy thuộc vào nguồn cội của con đường, sự thành kính bậc thánh trí.

Sự tôn kính bậc thầy

Sự tôn kính bậc thầy có nghĩa xem vị thầy của mình như đức Phật. Theo lời dạy của đức Phật Kim Cang Trì hay đức Thích Ca Mâu Ni, luận lý và kinh nghiệm bản thân  với vị thầy, những đức tính đặc biệt mà bạn nhận thấy nơi vị thầy, bạn luyện tâm để xem thầy mình là Phật, không có lỗi lầm và hoàn toàn đầy đủ đức hạnh.  Bạn phải tôn kính tất cả các vị thầy đã có mối liên hệ đạo pháp với mình như tôn kính Phật. Mối liên hệ đạo pháp được hình thành khi bạn xem thầy mình là bậc minh sư và tự xem mình là đệ tử—mặc dầu vị thầy chỉ dạy cho bạn chỉ một câu chú hay một câu kinh.  Tôn kính bậc thầy đúng phép, tôn kính các thiện hữu tri thức đúng cách, tức là bạn đang bước trên con đường giải thoát, từ việc có được thân người cho đến khi rốt ráo thành Phật.

Đức Dalai Lama đã đề cập đến qua những phân tích  về các phẩm chất của vị thầy. Các phẩm chất  cần để chỉ dạy Phật giáo nguyên thủy là hoàn hoàn thiện ba môn học—giới, định và tuệ. Để dạy pháp Đại thừa, vị thầy cần phải có mười đức tính được nêu rõ trong Kinh Di Lặc. Ở đây, tôi không dịch những từ này mà chỉ đề cập đến ý nghĩa của chúng.

(1) Vị thầy Đại thừa nên hoàn tất giới học.

(2) Vị thầy Đại thừa nên hoàn tất định học.

(3) Vị thầy Đại thừa nên hoàn tất tuệ học.

(4) Hơn nữa, khi chúng ta nói về việc thực tập Phật pháp, vị thầy có nhiều đức tính tốt hơn bạn và có kiến thức cao cả về Phật pháp.

(5) Vị thầy phải biết kiên nhẫn.

(6) Tâm thanh khiết của vị thầy luôn được thấm nhuần bởi hiểu biết kinh điển, khi nhận lãnh trách nhiệm truyền thừa Phật pháp.

(7)  Vị thầy của bạn đã nhận thức rõ tánh không. Bây giờ tôi đề cập đến vị thầy đã hoàn thiện ba môn học (giới, định, tuệ), một trong  ba môn học ấy là trí tuệ, vì thế, tại sao nhận thức tánh không được lại được đề cập đến ở đây? Sự khác biệt là ở đó, nhận thức tánh không ám chỉ cho quan điểm của Cụ Duyên Trung Quán[9]--nhận thức tánh không theo hai trường phái Trung Quán và Cụ Duyên Trung Quán. Quan điểm đặc thù về tánh không là duy nhất có thể diệt trừ tận gốc của luân hồi sanh tử, dứt sạch vô minh tạo ra tất cả loạn tưởng khác và nghiệp báo đưa đến khổ đau mà chúng sanh phải ghánh chịu. Chỉ có duy nhất một gốc rể của luân hồi—vô minh bị loại bỏ bằng quan điểm Cụ Duyên tánh không, chứ không dựa vào bất cứ quan điểm nào của trường phái khác. Đây là phẩm chất thứ bảy mà vị thầy của bạn sở hữu.

(8) Kỷ năng giảng Pháp.

(9) Phải có lòng thương tưởng đệ tử.

(10) Không  trể nãi  khi hướng dẫn và chỉ dạy đệ tử. Điều này có nghĩa một bậc thầy không nên có thái độ: “cái đó quá khó” hoặc “bạn đừng làm phiền tôi nữa”.

Thậm chí nếu vị thầy không có đủ tất cả mười phẩm chất trên, thì cũng nên sở hữu được phẩm chất nào càng nhiều trong số đó càng tốt.

Các phẩm chất của bậc thầy cũng được đề cập đến trong tác phẩm “năm mươi thi kệ tôn trọng bậc thầy”“lễ hội vinh danh thầy”, trong đó ca ngợi tính cách của vị thầy—thân, khẩu, ý thanh tịnh; từ bi và trí tuệ cao cả; tâm chân thật và ngay thẳng; không dối trá che đậy những sai lầm của mình; mười đặc tính bên trong cần phải có để chỉ dạy thiền định; và mười đặc tính bên ngoài cần phải có để chỉ dạy nghệ thuật của thiền với cấp độ thấp hơn.

Vị thầy của bạn phải chú trọng giới luật.

Tuy nhiên, dù bạn có nhận thấy tất cả các phẩm chất đó hay không, thì điều căn bản là phải có một vị thầy luôn chú trọng về giới luật. Một phẩm chất cơ bản quan trọng để chú ý đến là tầm quan trọng của vị thầy này dự trên giới luật—pratimoksha, vị Bồ-tát đối với những người phát nguyện thực tập thiền và nghệ thuật thiền. Một vị thầy nếu chú trọng đến giới luật, thậm chí không thể hướng dẫn đệ tử đầu thai vào cõi thiện trong những đời sau, thì chỉ có riêng mình giải thoát khỏi luân hồi và chứng đạt giác ngộ.

Nên biết, giới luật là điều rất cần thiết và trọng yếu. nếu không thực tập giới, thì không chứng đạt giác ngộ và giải thoát khỏi luân hồi, cũng như không tái sanh vào cảnh giới an lành trong những đời sau. Tôi không cho rằng điều đó ở trong các  thi kệ 7-9, cũng nên xem lời giải thích của ngài Tông Khách Ba trong tác phẩm “hoàn thành tất cả hy vọng” trang 40-48, và lý giải của ngài Ngawang Dharyey trên trang web www.LamaYeshe.com. Cả hai chú giải này có thể tìm thấy trong bản gốc.

Để tái sanh vào cảnh giới an lành, bạn phải phát nguyện nắm bắt kỉ giáo học  cả ba thừa[10]; để tái sanh vào cảnh giới an vui, ít nhất bạn phải thệ nguyện hành trì giới luật.

Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào; bất cứ lúc nào bạn cũng có thể chết. Do đó, nếu phải chết trong ngày hôm nay, thì ít nhất bạn phải nhất định đầu thai vào một cảnh giới an lành; phải chắc chắn ràng bạn không rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, những cảnh giới mà bạn hoàn toàn bị khổ đau chi phối. Ngay khi bị bệnh hoặc thời tiết nóng bức, con người chúng ta cũng không thể thực tập thiền định. Nếu đem cuộc sống của mình so sánh với những chúng sanh ở trong các cảnh giới thấp hơn, chúng ta sẽ nhận thấy mình rất có tự do và vô cùng an lạc. Tuy nhiên, khi gặp phải nhiều vấn đề, chúng ta không thể thực tập giáo pháp. Các chúng sanh ở trong những cảnh giới thấp hơn hoàn toàn bị khổ đau chi phối và không có cơ hội để thực tập giáo pháp. Bởi vậy, phải chắc chắn rằng khi mình chết—năm này, tháng này, tuần này hay ngay bây giờ—bạn sẽ không tái sanh vào những cảnh giới thấp hơn. Bạn phải bảo đảm mình tái sanh vào cảnh giới tốt lành. Đối với điều này, bạn phải chuẩn bị ngay bây giờ.

Sự chuẩn bị tốt nhất, nguyên nhân chính để đầu thai và cảnh giới an lành, là thực tập giới luật. Điều đó không có nghĩa bắt buộc bạn phải trở thành Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo ni. Có những giới luật cho người tại gia. Bạn có thể vâng giữ tám giới[11], năm giới[12] hoặc thậm chí ít hơn năm giới. Trong năm giới, bạn có thể vâng giữ một, hai, ba hoặc bốn giới, nghĩa là bất cứ giới nào bạn cảm thấy mình giữ được. Tuy nhiên, nếu hoàn toàn giử bất cứ gới nào và sống chết với chúng, thì ngay lập tức bạn được lợi ích và chắc chắn  sẽ tái sinh vào cảnh giới an lành trong đời sau. Kế tiếp, trong đời sống đó, bạn có thể thực tập giáo pháp, và bằng cách ấy, từ đời này sang đời khác, bạn có nhiều hạnh phúc, dạo chơi trên tất cả các con đường dẫn đến giác ngộ.

Vì thế, chú trọng đến giới luật để thúc đẩy đạo đức cho các môn đệ là phẩm chất rất quan trọng tìm thấy trong một vị thầy. Nó đem đến cho bạn sự tự do tuyệt đỉnh. Nếu thực tập giới và hoàn toàn sống với chúng, thì bạn đang có tự do—giải thoát khỏi luân hồi đau khổ và đạt được giác ngộ.

Duy trì giới luật thanh tịnh cũng là điều vô cùng quan trọng đối với vị thầy của bạn, một mối quan hệ tốt với các bậc thầy của mình, bởi vì bậc thầy mô phạm có thể đem lại lợi ích cho đệ tử và khiến họ có những nhận thức tùy thuộc vào giới luật của mình với các vị thầy. Nếu dấn thân phù hợp với một người bạn đức hạnh là điều rất tốt, thậm chí nếu vị thầy ấy chỉ hướng dẫn bạn một đôi lời, bởi vì sự thanh tịnh và sức mạnh về giới luật của ngài, thì những lời hướng dẫn đó có ảnh hưởng rất lớn với tâm của bạn. Chúng có thể tạo nên những cảm giác mạnh mẽ của từ bi, đức hy sinh, vô thường và cái chết, hoặc thúc đẩy một nhận thức về tánh không. Nếu vị thầy của mình không có giới luật thanh tịnh, thì luôn luôn xuất hiện mối nguy hiểm mà bạn sẽ nhận lấy sự hoen ố tâm hồn hoặc tạo ra các sai lầm tương tự với vị thầy của bạn như ông ta đã làm.

Chín thái độ tôn kính thầy[13].

Bây giờ, tôi không nêu ra chín thái độ tôn kính bậc thầy mà ngài Tông Khách Ba đã giảng giải trong tác phẩm “bồ đề đạo thứ đệ quảng luận”, mà tôi đã phổ biến trong suốt khóa tu “kim cang thừa” tại trung tâm “cõi nước  Phật Dược Sư”[14] vào năm 1999. Ở đây, tôi không giải thích nhiều mà chỉ đọc qua nó. Có những người đã từng nghiên cứu đề tài này sẽ hiểu nó, nhưng cũng có người sẽ không nắm bắt được một số ý tưởng trong đó. Đọc lời dạy này thực sự rất có lợi, đặc biệt tâm bạn nếm trãi những khó khăn với vị thầy của mình. Điều đó giống như  quả bom nguyên tử, nó làm cho tất cả những  ý tưởng khó khăn ấy hoàn toàn biến mất. Các văn bản, thực tập sự tôn kính thầy có chín thái độ được ngài Shabka Tsogdrug Rangdrol, một vị Lama thuộc dòng Nyingma, người tiếp nhận các lời dạy về tiệm giáo của những Lama thuộc dòng  Gelug, theo cách thức mà ngài Tông Khách Ba (Tsongkhapa) đã thực hiện, viết ra. Cách trình bày của ngài Shabka có ảnh hưởng rất lớn đến nổi tôi đã dịch ra. Tôi đòi hỏi có một vị thầy đức hạnh cao cả, người phi thường hơn tất cả các đức Phật:

             Xin chúc phúc cho con để con hiến trọn đời mình cho một vị thầy rất mô phạm,

            Với sự tôn kính vô bờ trong tất cả kiếp sống tương lai của con.

            Bằng cách nhận ra rằng thực sự hiến dâng đời con cho bậc thầy cao cả,

            Người là nền tảng của tất cả những phẩm chất tốt lành,

            Là cội nguồn của hạnh phúc và lương thiện,

            Con sẽ hiến trọn bản thân mình cho Người với sự tôn kính tuyệt đối,

            Không bao giờ từ bỏ Người dù bất cứ giá nào trong đời con,

            Chắc chắn con cho phép bản thân phủ phục dưới sự điều khiển của Người.

Vâng, tôi vốn không muốn nói, nhưng xin lỗi, phải nói hai chữ điều khiển, do vậy, tôi nghỉ mình nên nói ra một điều gì đó, bởi vì không ai thích bị điều khiển! Đặc biệt ở phương Tây, không ai muốn bị người khác điều khiển. Không, thậm chí ngay cả muỗi mòng! Dù sao đi nữa, tôi đang nói đùa! Nhưng nếu không hiểu ý nghĩa của thi kệ này là gì, thì bạn đặt nó vào trường hợp sai lầm khi nghe rằng bạn hiến thân cho sự điều khiển của vị thầy. Tuy nhiên, với một ví dụ đơn giản sẽ giúp bạn nhận ra điều đó.

Nếu dấn thân mình chịu sự điều khiển của một người bạn tốt và tuân theo lời khuyên của người đó, thì bạn cũng có thể trở thành con người tốt, nhưng nếu bị một người bạn xấu điều khiển, thì tất nhiên bạn trở thành con người xấu. Nếu thực hiện những gì mà người bạn tốt nói, thì bạn không hề tạo ra nhiều vấn đề cho chính mình và người khác; bạn chỉ dem lại hạnh phúc cho người khác. Ở tác phẩm “giải thoát trong lòng bàn tay”, ngài Pabongka Dechen Nyingpo nói về câu chuyện một người nghiện rượu và một người không nghiện rượu. Người nghiện rượu đi đến tu viện Reting và trở thành người hoàn toàn không nghiện rượu nữa. Còn người không nghiện rượu đi đến Lhasa[15], do bị ảnh hưởng  những người khác, nên anh ta bắt đầu uống rượu và trở thành kẻ nát rượu. Mỗi con người đều trở nên hoàn toàn đối lập với những gì anh ta làm trước đó là nhờ  vào ảnh hưởng của bạn bè mà anh ta thiết lập mối quan hệ. Nếu lắng nghe lời khuyên của đức Phật—người chỉ có lòng thương tưởng đến tất cả chúng sanh và không có tâm vị kỉ; người có năng lực, trí tuệ và từ bi hoàn hảo; tâm trí thanh khiết của người thông suốt vô song—thì tất cả những gì bạn thể hiện đều đem lại lợi ích. Dấn thân mình dưới sự kiểm soát của đức Phật, sẽ mang lại cho bạn hạnh phúc và chứng đạt giác ngộ. Bạn có hạnh phúc trong hiện tại và mọi kiếp sống tương lai. Tương tự, nếu đặt mình dưới sự kiểm soát của một người bạn đức hạnh, bạn chắc nhắn sẽ có lợi ích như dấn thân mình dưới sự kiểm soát của đức Phật. Chỉ có lợi ích chứ không bao giờ có một mảy may nào tổn hại.

Bây giờ, việc thuật lại lời dạy này cho những người đã tiếp cận giáo pháp cách đây một thời gian dài, nếu đã đặt mình dưới sự kiểm soát của các vị thầy trong thời gian trước đó, chúng ta sẽ phải nắm bắt nhiều hiểu biết ngay lập tức. Chúng ta hiểu rỏ sự tôn kính vị thầy, đức hy sinh, tâm Bồ-đề và tánh không, tiếp nhận nhiều hiểu biết về nghệ thuật thiền,  hoàn toàn giải thoát khỏi luân hồi và đạt được giác ngộ. Ít nhất, chúng ta tiếp nhận một số nhận thức về tiệm giáo. Điều này sẽ không xuất hiện nếu chúng ta không mở tâm mình đến với bậc thầy, không chịu đặt mình dưới sự kiểm soát của người bạn đức hạnh. Bởi vì sai lầm ấy, nên tâm chúng ta hoàn toàn không có bất cứ nhận thức nào.

Hai thái độ tôn kính vị thầy đầu tiên là:

(1) Hãy là đứa con ngoan,

Vâng theo lời dạy của vị thầy.

(2) Dù ma vương hay bạn bè xấu,

Chia rẽ con với thầy,

Hãy đừng bao giờ xa lìa thầy.

Ngài Drubkang Tsangpa Gyari, một vị Lama thuộc dòng Kagyu của trường phái Du-già (yogi), nói: “nếu gặp rắc rối trong mối quan hệ của bạn với vị thầy, thậm chí nếu tất cả chúng sanh trở thành bằng  hữu của của bạn, thì điều cần thể hiện là?”. Nói cách khác, nếu có vấn đề gây tổn hại đến mối quan hệ của bạn với vị thầy—sự tiện lợi của mối quan hệ hoặc giới hạnh của bạn—thậm chí nếu tất cả chúng sanh trở thành bằng hữu của bạn, thì điều cần thể hiện là gì? Những gì họ có thể làm. Bạn làm gì? Từ khi có điều sai lầm trong mối quan hệ của bạn với vị thầy, cho đến lúc bạn chỉnh đốn mối quan hệ đó và thể hiện khôi phục nó, thậm chí nếu mọi người đều trở nên bằng hữu của bạn, thì bạn cũng không thể thoát khỏi sanh tử luân hồi và chứng đạt giác ngộ, hoặc ngay cả nhận thức về con đường giác ngộ.

Tôi không nhớ rõ từng lời dạy của câu kệ  kế tiếp của vị Lama này, nhưng ý nghĩa của nó muốn nói rằng nếu duy trì mối quan hệ tốt với thầy mình, nếu không có gì sai trái xảy ra, thì dù tất cả chúng sanh xa lánh bạn hoặc trở thành kẻ thù của bạn, cũng không có vấn đề gì. Thông thường, con người luôn nghỉ rằng mọi cá thể trở thành bạn hoặc kẻ thù của mình là một vấn đề lớn, nhưng trong sự thực tập giáo pháp, khi bạn thiết lập mối quan hệ với vị thầy và không phạm phải bất cứ sai lầm nào trong mối quan hệ ấy, thì đó là mấu chốt của tất cả những vấn đề. Thậm chí nếu mọi người trở thành kẻ thù của mình, thì cũng không quan trọng, bởi vì từ nền tảng của mối quan hệ tốt đẹp đó khiến bạn có thể nắm bắt tất cả hiểu biết và đạt được mọi thành công cho đến giác ngộ, đồng thời sau đó, bạn mang lại lợi ích cho tất cả chúng sanh bằng cách giác ngộ họ. Đây là ý nghĩa  của lời dạy cao thượng thuộc trường phái Du-già.

(3) Khi thầy giao công việc, cho dù nặng nhọc đến mấy,

Hãy kiên nhẫn như đất và chịu đựng làm cho xong việc.

(4) Khi hầu thầy,

Cho dù có bị đau khổ,

Hãy bất động như núi, đừng chuyển lòng.

Ở đây, đau khổ có nghĩa là khó khăn hoặc các vấn đề, và khi điều này xảy ra, tâm của bạn phải trở nên kiên định và không lay động hay nản lòng.

(5) Cho dù phải nhận lãnh tất cả các công việc nặng nhọc,

Hãy như vị trung thần,

Hoàn tất các công việc với tâm không dao động.

(6) Hãy từ bỏ thói kiêu mạn,

Hãy tự đặt mình thấp hơn vị thầy,

Hãy xem mình như người quét rác.

Tôi không chắc chắn rằng bằng cách nào đó để truyền bá lời dạy này đến phương Tây, nhưng ở phương Đông, người quét rác là tầng lớp thấp nhất trong xã hội. Ở phương Tây, họ luôn có quan điểm mọi người đều bình đẳng, nhưng ở phương Đông, người quét rác được xem là kẻ thấp hèn trong xã hội.

(7) Cho dù trách nhiệm có khó khăn nặng nhọc đến mấy,

Hãy như sợi dây, vui vẽ nắm giữ công việc của thầy.

(8) Cho dầu vị thầy có phê phán, chỉ trích

Hay không đoái hoài đến bạn,

Hãy như con chó trung thành,

Đừng bao giờ đáp lại bằng sự nóng giận.

Chẳng có vấn đề gì khi người chủ đánh con chó, nó luôn luôn bày tỏ thái độ tôn trọng và không bao giờ giận dữ. Khi thấy người chủ đến, nó vẩy đuôi chạy đến liếm vào người chủ để bày tỏ thái độ rất vui mừng.

(9) Hãy như con thuyền,

Đừng bao giờ buồn khi đến hay đi cho thầy.

Kính bạch vị thầy cao quý!,

Xin chúc phúc cho con thực tập như vậy,

Từ bây giờ cho đến mọi kiếp sau,

Con luôn hầu thầy theo cách này.

Bằng cách tụng đọc to những thi kệ ấy, suy ngẫm nghĩa lý của chúng, thì bạn sẽ có một sự may mắn tốt đẹp để hiến trọn đời mình hầu vị thầy đức hạnh một cách đúng đắn từ đời này sang đời khác trong tất cả kiếp sống ở tương lai.

Nếu phục vụ, tôn kính và hầu vị thầy đức hạnh với chín thái độ trên, thậm chí nếu không cố ý thực tập, thì bạn cũng sẽ phát triển nhiều phẩm chất tốt, tích tập được phước đức rộng lớn và nhanh chóng đạt đến giác ngộ hoàn toàn.

Bài thi kệ cuối cùng giải thích rõ ngay cả khi nếu bạn không nghiên cứu hoặc luyện tập đặc biệt, như pháp căn bản, buông thư v.v—nói cách khác, không chú tâm thực tập—nhưng nếu dâng hiến thân mình để phục vụ người bạn đức hạnh một cách đúng nghĩa qua suy nghỉ và hành động, thì bạn cũng sẽ tự nhiên phát triển nhiều phẩm chất cao đẹp, thường xuyên tích tập phước đức rộng lớn và nhanh chóng chứng đắc giác ngộ hoàn toàn.

Do vậy, mỗi khi làm điều gì đó mà vị thầy sai bảo, bạn  đang từng bước đi gần hơn tới bến bờ giác ngộ. Bất cứ lúc nào bạn thực hiện theo lời khuyên dạy của thầy mình, nó trở nên vô cùng trong sáng. Ác nghiệp của nhiều đời cũng được tịnh hóa, bạn tích tập vô lượng phước đức và tiến gần đến giác ngộ hơn.

Ví dụ, ngay cả việc dọn dẹp phòng cho thầy. Mỗi khi lau phòng, bạn tiến gần đến giác ngộ hơn. Vì sao? Bởi vì trong tất cả các lực sĩ, vị thầy của bạn có sức mạnh nhất; mạnh hơn cả vô lượng chư Phật, chư Bồ-tát. Năng lực này xuất hiện ngay trong lúc người đó trở thành vị thầy của bạn. Trong giây phút bạn thiết lập mối quan hệ đạo pháp công nhận người khác là thầy còn bạn là đệ tử—cho dù người ấy có giác ngộ hay không, là Bồ-tát hay không phải Bồ-tát—thì người ấy cũng trở thành bậc có quyền nhất trong đời của bạn; có năng lực hơn tất cả chư Phật và Bồ-tát. Vì thế, bất cứ làm điều gì, thậm chí lau phòng cho thầy mình, thì nhiều nghiệp ác đã được tịnh hóa và đưa bạn đến gần  giác ngộ hơn. Nên nhớ rằng, mỗi khi hầu thầy với bất cứ điều gì, thì bạn đang tịnh hóa tâm trí và tiến gần đến giác ngộ hơn.

Đến cuối đời mình, Lama Atisha[16] đã biểu hiện bệnh tật, không kiểm soát bản thân nên tiểu tiện ngay trên dường bởi vì không thể dậy nổi để đi vệ sinh. Thị giả của ngài, Dromtonpa, không ngại dơ dáy đã tắm rửa và chăm sóc ngài rất chu đáo. Kết quả, Dromtonpa đã tịnh hóa được nhiều hiện tượng nghiệp xấu ác đến nổi phát khởi trí tuệ sáng suốt để thấy rõ tâm của ngay những côn trùng nhỏ bé như sâu, kiến, và trông xa đến mức con đại bàng bay suốt 18 ngày cũng thấy.

Bằng cách hầu thầy của bạn, mọi hiểu biết nhất định xuất hiện. Năng lực của tất cả các hiểu biết nằm ngay trong tâm bạn. Bạn chỉ cần tịnh hóa để hiển bày chúng. Nếu càng tịnh hóa, thì bạn sẽ càng nhận được nhiều hiểu biết.

Pabongka Dechen Nyingpo[17], cha đẻ  của tác phẩm “giải thoát trong lòng bàn tay”, có một người đệ tử mù chữ. Tôi nghỉ tên của người này là Jamyang. Jamyang thậm chí không biết đến bảng chữ cái. Trước khi Pabongka Dechen Nyingpo  qua đời, ngài bảo vị đệ tử rằng ông nên tự mình đọc toàn bộ Guru Puja[18] chứ không cần học hành gì thêm nữa. Và điều đó, chính xác những gì đã xảy ra. Sau khi bị bắt đi đày từ Tây Tạng, Jamyang đã chôn thân trong trại tị nạn ở Buxa[19], nơi mà tôi đã sống suốt tám năm để tiếp nhận những lời dạy đầy minh triết của ba vị thầy—Lama Rabten Rinpoche, Lama Yeshe và Lama Gen Yeshe.

Trong thời gian người Anh cai trị  Ấn Độ, Buxa trở thành trại tập trung, nơi mà Thánh Gandhi[20] và thủ tướng Nehru[21] đã bị giam cầm. Nơi giam cầm Nehru đã trở thành đại sảnh cầu nguyện thuộc tu viện Sera và nữ tu viện của Gandhi.

Tại Buxa, các Lama hiện thân sống trên một ngọn núi cao thuộc phần dư của trại. Viện chủ và vị thầy chủ chốt của Tu viện Kopan[22], Lama Lhundrub, người quản lý giáo dục và giới pháp của ba trăm tu sĩ tại Kopan, thường sống trong cùng một tòa nhà như hiện thân của Pabongka Dechen Nyingpo, nơi mà Jamyang đã sinh sống. Khi Jamyang mới đến Buxa, ông ta không thể đọc được một chữ, nhưng ngày qua ngày, dần dần ông ta đã đọc hết toàn bộ Guru Puja. Ông tự nói với Lama Lhundrub rằng Pabongka Dechen Nyingpo đã từng khẳng định trước điều này sẽ xảy ra.

Nếu bạn tịnh hóa tâm mình, thì mọi hiểu biết sẽ đến. Những gì bạn cần là sự tịnh hóa, và sự tịnh hóa mạnh mẽ nhất chính là phải tận tâm với người bạn đức hạnh của mình; vâng lời khuyên bảo của vị thầy. Cách tốt nhất để phục vụ người bạn đức hạnh là thực tập những lời dạy của người ấy, kế đến là hầu hạ và tôn trọng—lau chùi phòng ốc, nấu nướng cho thầy v.v—và kế đó là cung phụng các vật dụng, nếu bạn có.

Chuyện kể rằng người đầu bếp của Lama Atisha suốt đời chỉ nấu nướng hầu thầy mình đến nổi không có thời gian để thực tập thiền định, nhưng đã có nhiều hiểu biết hơn là Gombawa, một đệ tử khác của Atisha thuộc dòng truyền thừa Kadampa, người dành trọn đời để tu tập thiền định trong hang động,

Kết luận

Tôi rất cám ơn các bạn vì đã cho tôi cơ hội để chia sẽ một số điều mà tôi biết. Tôi hy vọng các bạn tiếp nhận một vài lợi ích nhỏ nhoi qua sự trình bày lẩm cẩm của tôi.

Cơ hội để chúng ta học hỏi giáo pháp trong đời này là rất lớn; không biết trong những đời sau, chúng ta có cơ hội tốt như vậy nữa hay không. Những người tiếp nhận hiểu biết từ những gì mà trong kinh điển đã trình bày là những người có tôn trọng trọng vị thầy mình thực sự; họ là những người có thể chứng đạt giác ngộ ngay trong đời này. Những người đã từng thể hiện tôn kính vị thầy và hết lòng vì người bạn đức hạnh thì có thể được giác ngộ ngay trong kiếp sống ngắn ngủi này. Tương tự, nó liên hệ chặt chẽ đến tất cả hiểu biết về con đường giác ngộ. Nếu không tôn kính vị thầy, thì dù bạn học bao nhiêu giáo pháp, cũng trở nên khô cứng.

Hồi hướng

Nguyện đem công đức tích tập được trong tối nay qua việc lắng nghe, giải thích giáo pháp; đem tất cả phước đức trong quá khứ, hiện tại và tương lai do con và người khác tích tập hồi hướng về đức Phật của từ bi, ngài Dalai Lama, tất cả những bậc thánh khác có đời sống bình yên, cho tất cả những thệ nguyện cao cả của họ được thành tựu ngay lập tức và cho tăng già—tăng già nói chung và tăng già ở phương Tây nói riêng—có thể hoàn thành hiểu biết và nhận thức tâm linh của họ về toàn bộ con đường giác ngộ ngay trong đời này bằng cách tiếp nhận tất cả phương tiện cần thiết để thực hiện như vậy.

Xin hồi hướng cho pho tượng Phật Di Lặc cao 152,4m ở Kushinagar[23] được hoàn thành viên mãn, không gặp bất cứ chướng ngại nào và đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh bằng cách khiến họ phát khởi tâm Bồ-đề, đồng thời chứng đạt giác ngộ càng nhanh càng tốt.

Theo Kim Cang Thừa[24], thông thường, các pho tượng được khắc đầy những câu thần chú. Nhưng pho tượng này cao 152,4m—nó rộng lớn đến dường như được khắc mật chú lấp kín cả bầu trời. Do vậy, chúng ta có ý tưởng thiết lập nhiều ngôi chùa ngay trong pho tượng. Sẽ có một ngôi chùa Taras cao 21m, một ngôi chùa Di Lặc và một ngôi chùa Mười Sáu Vị La Hán v.v Sẽ có nhiều ngôi chùa khác nhau dành riêng cho nhiều lãnh vực trong đó. Chính giữa tim pho tượng sẽ là một ngôi chùa chuyên thờ di tích của đức Phật và nhiều di tích khác để mọi người đến chiêm bái, đi nhiễu và cúng dường. Tôi muốn ở đó có một ngôi chùa nữa dùng để trưng bày những lời dạy về Bát nhã ba la mật, được viết mực bằng vàng trên một loại giấy đặc biệt, của tất cả các đức Phật. Tôi đã bắt đầu viết kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật bằng vàng rồng từ Nepal. Ngay cả khi đi du lịch, tôi vẫn tiếp tục viết. Với tốc độ làm việc như vậy, tôi chỉ mất hơn một vài năm để hoàn thành. Ngôi chùa này cũng sẽ chưng bày những bản kinh khác, chẳng hạn như Tâm Kinh, được khắc bằng vàng, bằng bạc và được bao bọc bởi san hô, ngọc trai cũng như các loại đá quý khác để mọi người đến chiêm bái, đi nhiễu, đồng thời thiết lập hệ thống ánh sáng và bát nước để cúng dường và chúc phúc.

Dù sao, tôi không muốn đề cập đến nhiều, nhưng có một điều nữa rất quan trọng cần phải nói.  Trong kinh Kim Cang Bát Nhã nói—ở đây, tôi không trích nguyên văn mà chỉ giải thích ý nghĩa—rằng nếu bạn  lấp đầy thế giới  như số cát  sông Hằng, một con sông dài rộng của Ấn Độ, trang hoàng các tháp bằng bảy thứ báu (vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách) chứ không phải xây bằng ghạch, xi mănng nhằm chứa đựng những thánh tích của đức Phật và khiến cho tất cả chúng sanh sống trong thế giới rộng lớn đó đến cúng dường những bảo tháp ấy, tuy tích tập được phước đức lớn như vậy, nhưng vẫn thấp kém hơn phước đức của người dùng mực đen viết lên một văn bản kinh Bát Nhã Ba La Mật.

Bất cứ lúc nào viết được một ít bản kinh này, tôi cố gắng bằng cách tốt nhất của mình để hồi hướng phước đức cho thế giới hòa bình, và cầu nguyện “nếu kinh này xuất hiện bất cứ thế giới, vũ trụ hay khu vực nào, thì ở đó không có chiến tranh bệnh tật và tai họa như hỏa hoạn, lũ lụt, động đất .v.v; mọi người ở đó đều phát tâm Bồ-đề, nhanh chóng đạt được trí tuệ và nhận rõ tánh không, tịnh trừ hoen ố và chứng đắc giác ngộ”.

Nên biết, tất cả công đức của mình, của chư Phật, chư Bồ-tát và chúng hữu tình khác tích tập được trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều là không; phước đức của chính tôi cũng là không; sự chứng đắc giác ngộ của đức Thích Ca Mâu Ni cũng là không, và tất cả chúng sanh được giáo hóa cũng là không; đạt đến giác ngộ cũng không; chính bản thân tôi cũng là không; tất cả đều là không, không vướng mắc vào những khía cạnh riêng biệt.

Sau cùng, xin nguyện cho bạn, gia đình bạn và tất cả chúng sanh khác luôn luôn thực tập con đường thánh thiện của ngài Tông Khách Ba (Tsongkhapa) qua sự thống nhất giữa kinh điển và mật chú trong đời sống này, đồng thời tiếp cận lời dạy ấy trong tất cả các đời vị và khiến nó trở nên hưng thịnh, lan truyền khắp mọi hướng.

Lời dạy này được ngài Dalai Lama thuyết giảng tại một ngôi làng ở phía Đông vào ngày 13 tháng 8 năm 1999, nhân chuyến viếng thăm của ngài đến New York


[1].Tâm Bồ-đề là chí nguyện nóng bổng của một chúng sanh muốn thoát ra khỏi trần lao khổ ải đang đay nghiến mình và người khác trong trầm luân sanh tử. Tâm này là ý chí kiên cường, là nền tẳng phát sanh các pháp lành đưa chúng sanh thoát khỏi bờ mê đi về bến giác. Trong Phát Bồ Đề Tâm Văn nói” Nếu mất tâm Bồ-đề, thì dù tu các thiện phát, cũng đều là ma nghiệp”. Do đó, Tâm Bồ-đề cũng chính là căn bản, nguồn cội của mười phương chư Phật trong ba đời. Người tu theo đạo Phật, nếu không phát khởi tâm Bồ-đề, thì không thành tựu quả vị giác ngộ hoàn toàn.

[2].Tánh không (sunyata)  là bản chất đích thực của tất cả các pháp.  Tánh không còn được gọi là Chân như tánh, một triết lý vi diệu trong Phật giáo. Triết lý này cho chúng ta nhận thức được sự thật của vạn hữu là trống rỗng, không có tự tánh, chỉ do nhân duyên giả hợp mà có. Nhờ triết lý tánh không, chúng ta thấy các pháp vốn như mộng như huyễn để tu tập phá ngã phá pháp mà chứng đắc quả vị giác ngộ tuyệt đối.

[3] Du-già (yoga) có nghĩa là tương ứng. Đó là phép quán hành nương vào phương pháp điều hòa hơi thở nhằm tập trung ý niệm vào một điểm, lấy việc tu chỉ quán làm chính để đạt đến sự nhất trí, tương ứng hài hòa giữa bản thân mình với vạn vật vũ trụ nhằm về được với đức Đại Nhật Như Lai. Đây là pháp tu thiền định kiên cố sao cho thần chí của mình phối hợp một cách nhịp nhàng hòa ứng với chư Phật, chư Bồ-tát ở các cõi. Sự tương ứng này có năm nghĩa: tương ứng với cảnh; tương ứng với hành; tương ứng với lý; tương ứng với quả; tương ứng với căn cơ.

[4] Tu viện Sảe-je là một tu viện nổi tiếng ở Tây Tạng, Tu Viện này do đại sư Jetsun Kunkhen Lodroe  Rinchen Senge thành lập vào thế kỷ 15.

[5]  Tara là một vị Phật Mẫu luôn cứu giúp chúng  sanh thoát khỏi sông mê bể khổ. Theo Phật giáo Tây Tạng, Đức Tara là một nhân vật lịch sử. Vào vô số kiếp trong một cảnh giới khác, có một công chúa tên là Yese Dawa. Nhờ sự học hỏi và trí tuệ của mình, nàng có lòng tin kiên cố với ba ngôi Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. Nàng thấu hiểu đời sống bất như ý của vòng xoáy luân hồi, do vậy nàng quyết định giải thoát khỏi tất cả mọi đau khổ. Vì thấu rõ tất cả chúng sanh cũng giống như mình đều muốn sống hạnh phúc và không muốn khổ đau nên công chúa Yese Dawa đã trưởng dưỡng lòng từ bi và tình yêu thương về mỗi chúng sanh. Nàng không thích lối sống xa hoa trong cung vàng điện ngọc  nên đã phát nguyện dẫn dắt hướng đạo cho hằng vạn chúng sanh trên con đường giác ngộ giải thoát. Vì nhân duyên này, công chúa được tôn xưng là Arya (bậc tôn quý) có nghĩa là người có thể chứng đạt bản chất của thực tại, và danh xưng đó biểu hiện các hạnh nguyện giải thoát của Ngài. Một bậc lãnh tụ tâm linh của thời đó đã khuyên công chúa hãy cầu nguyện để tái sanh làm thân trượng phu, nhưng công chúa Yese Dawa đã phát nguyện thành tựu giác ngộ trong thân người nữ và còn liên tục hóa thân trở lại trong hình tướng nữ nhân để cứu độ hữu tình. Như vậy, ngài cũng là một chúng sanh như bao chúng sanh khác, nhưng nhờ chuyên cần tu tập theo Phật pháp, rèn luyện tâm linh nên đã chứng đạt toàn giác. Và được tôn xưng Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara. Cũng có thuyết cho rằng Đức Tara là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm.

[6] Tám cảnh giới bất thiện: Địa ngục; ngạ quỷ; súc sanh; Bắc-cu-lô-châu (nơi không có Phật pháp); Trời trường thọ (nơi chúng sanh không muốn tu tập giáo pháp); tà kiến (không hiểu về nghiệp và không biết đời sống quá khứ và tương lai); sinh thời không gặp Phật; bị điếc, câm, đui mù hoặc khuyết tật.

[7] Mười cõi thiện: Tái sinh làm người; sinh vào nơi có Phật pháp; sinh ra có đầy đủ năm căn; không bị nghiệp ràng buộc; chánh tín Tam Bảo; sinh vào cảnh giới có Phật thị hiện; sinh vào nơi được nghe Phật giảng pháp; nơi có giáo pháp hưng thịnh; nơi có người tu tập và chứng đạt giáo pháp thanh tịnh; nơi có thiện hữu tri thức và các bậc thầy tâm linh.

[8] Dharamsala: Là một thành phố nằm trên độ cao 1600m  thuộc bang Himachai Pradesh của Ấn Độ. Đây là trong những trung tâm Phật học cổ xưa nhất của thế giới mang đầy tính huyền bí. Chính phủ Ấn Độ đã cho phép người Tây Tạng về đây sinh sống và tu học theo giáo lý Phật giáo, đặc biệt là phật giáo mật tông. Nơi đây chính là quốc gia thứ hai của nhà lãnh đạo tinh thần của dân Tây Tạng nói riêng và thế giới nói chung, tức ngài Dalai Lama đời thứ 14.

[9] Trung Quán: còn gọi là Trung Quán Luận, một tác phẩm nổi tiếng của ngài Long Thọ, người khai sáng trường phái Trung Quán. Luận này được xem là tác phẩm then chốt của trường phái Trung Quán, nên từ lúc được biên soạn đến này, nó được giải thích và bình luận rất nhiều. Trung Quán lý giải các pháp vốn do duyên sanh nên không có tự tánh, tức bản chất của các pháp là tánh không. Nếu chứng ngộ được tánh không tức là giải thoát. Sau này, ngài Nguyệt Xứng dựa vào Luận Trung Quán để lập ra một trường phái mới gọi là Cụ Duyên Trung Quán. Trường phái này (Cụ Duyên Trung Quán) được thiết lập bằng phương pháp suy luận biện chứng trên cơ sở nhân minh học. Vào thế kỉ thứ 8, trường phái này được ngài Tịch Hộ đổi thành Trung Quán Duy Thức.

[10] Ba thừa:  tiểu thừa, đại thừa và kim cang thừa.

[11] Tám giới: 1. Không được sát sanh; 2, Không được trộm cắp; 3, không được tà dâm; 4, không được nói dối; 5, không được bán rượu, uống rượu và các thứ làm say người ; 6, không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát; 7, không được nằm ngồi dường cao rộng đẹp đẽ; 8, không được ăn quá ngọ (chỉ trong ngày thọ bát quan trai).

[12] Năm giới: 1,Không được sát sanh; 2, không được trộm cắp; 3, không được tà dâm; 4, không được nói dối; 5,  không được uống rượu và các thứ làm say người.

[13] Chín thái độ tôn kính thầy: ,1.Hãy là đứa con ngoan—vâng làm theo lời dạy của vị thầy; 2, Cho dầu ma vương hay bạn xấu có chia rẽ bạn với vị thầy, hãy đừng bao giờ lìa xa thầy; 3, Khi thầy giao việc, cho dầu nặng nhọc đến mấy, hãy kiên nhẫn như đất và chịu đựng làm cho xong việc; 4,Khi hầu thầy, cho dù có bị đau khổ, hãy bất động như núi, đừng có chuyển lòng; 5, Cho dầu phải nhận lãnh tất cả các công việc nặng nhọc, hãy như vị trung thần, hoàn thành tất cả các công việc với tâm không dao động; 6,Hãy từ bỏ thói kiêu mạn, hãy tự đặt mình thấp hơn vị thầy; 7,Cho dầu trách nhiệm có khó khăn nặng nhọc đến mấy, hãy như sợi dây, vui vẽ nắm giữ công việc của thầy; 8,Cho dầu vị thầy có phê phán, chỉ trích hay không đoái hoàn đến bạn, hãy như con chó trung thành, đừng bao giờ đáp lại bằng sự nóng giận; 9,Hãy như chiếc thuyền, đừng bao giờ buồn khi đến hay đi cho thầy.

[14] Cõi nước Phật Dược Sư: là một trung tâm thiền nổi tiếng ở Tây Tạng.

[15] Lhasa: là thủ phủ hành chính của khu tự trị Tây Tạng.

[16] Lama Atisha: là một bậc thánh, một học giả Phật giáo nổi tiếng ở Ấn Đọ vào thế kỉ 11. Sau này ngài đến Tây Tạng theo lời mời của vua Tây Tạng  và lập nên dòng truyền thừa thứ hai của Phật giáo Tây Tạng.

[17] Pabongka Dechen Nyingpo: là hóa thân của học giả vĩ đại Jangkya Rolpao Dorje (1717-1786), trong khi trước đây là tái sinh của một vị tiến sĩ Phật học uyên bác tại tu viện Sera-mae ở Tây Tạng.. Ngài là một vị Lạt ma lỗi lạc và trụ cột của Phật giáo Tây Tạng.

[18] Guru Puja: là buổi lễ tôn vinh các vị thầy ở Tây Tạng, trong đó nghi lễ cúng dường được thực hiện cho các đạo sư tâm linh trong quá khứ của dòng truyền thừa.

[19] Buxa: là một hoang vắng ở miền Đông Ấn Độ. Người Tây Tạng đi tị nạn thường sống ở vùng này.

[20] Gandhi: là vị cha già dân tộc của Ấn Độ. Tên đầy đủ của ông là Mohandas Karamchend Gandhi. Ông sinh ngày 2/10/1869 và mất 30/1/1948. Ông đã chỉ đạo người dân đứng lên chống lại chế độ thực dân của Đế quốc Anh bằng phương pháp “bất bạo động” để dành lại độc lập cho Ấn Độ vào năm 1947. Do vậy, ông được người dân Ấn Độ tôn vinh Mahatma, nghĩa là bậc lãnh tụ linh hồn hay bậc thánh.

[21] Nehru: là vị thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ. Ông sinh năm 1889 và mất 1964, có tên đầy đủ là Jawaharlai Nehru. Sau khi Ấn Độ dành được độc lập, ông được bầu vào cương vị thủ tướng.

[22] Tu viện Kopan: là một tu viện Phật giáo Tây Tạng nằm ở vùng ngoại ô Nepal. Đây là trung tâm chuyên bảo vệ truyền thống Phật giáo đại thừa.

[23] Kushinagar (Câu Thi Na La): là một trong bốn thánh địa Phật giáo. Kushinagar nằm ở bang Utter Pradesh của Ấn Độ. Đây là nơi mà đức Phật đã trãi qua những ngày cuối cùng của cuộc đời mình và đạt được đại Niết-bàn.

[24] Kim Cang Thừa(Valrayana): còn gọi là Mật thừa, cũng như mọi tông phái khác của Phật giáo, đều nhắm đến mục đích đạt đến trọn vẹn Phật tánh để thành Phật. Kim Cang Thừa được Phật giáo Tây Tạng xem là con đường tối thượng để chứng ngộ Phật quả nhanh nhất.

http://www.daophatngaynay.com/vn/cuoc-song/12071-Hay-Lam-Cho-Cuoc-Song-Tro-Nen-Co-Y-Nghia.html